Thánh Giuse DIAZ SANJURJO AN, Giám mục dòng Đaminh (1818-1857)
Ngày 20 Tháng 7
Lá thư tâm sự
Qua những lời lẽ được trích từ lá thư viết trong tù của thánh Giam mục Giuse An, chúng ta có thể hiểu được phần nào tâm hồn của ngài. Với mẫu thân và mảnh giấy xé trong sách, ngày đã nắn nót từng chữ viết lên lời tuyên xưng niềm tin, bày tỏ ước nguyện dâng hiến đời mình hòa với hy tế của Đức Kitô và biểu lộ lòng xác tín vào Quê Trời vĩnh cửu, nơi ngài mong tái ngộ với mọi người thân yêu: “Tù nhân trong chúa gởi lời tạm biệt Đức Cha và các cha cho tới ngày gặp nhau trên trời. xin tất cả anh em tha thứ cho những điều lầm lỗi và gương xấu tôi đã làm … Gông xiềng tôi đang mang được coi là những báu vật Chúa Giêsu gởi cho tôi. tôi vui mừng lắm vì chỉ ước ao đổ máu vì Chúa, để máu tôi hòa với Máu Cực Thánh Chúa Giêsu rửa linh hồn tôi được sạch mọi tội lỗi. xin anh em cầu cho tôi vững đến cùng…
Viết tại ngục Nam Định, ngày 28.5.1857,
Fray José Maria”.
Ước vọng và nỗ lực
Giuse Diaz Sanjurjo chào đời ngày 26.10.1818 tại Santa Eultia de Suegos, tỉnh Lugo nước Tây Ban Nha. Là con cả của gia đình năm anh em, trong đó người em gái là nữ tu Antonia. Lớn lên cậu theo học tại chủng viện Lugo. Vì nội chiến, cậu bị gián đoạn ba năm học phải trở về quê. Sau đó vào đại học Compostella. Trong giai đoạn này, Giuse Sanjurjo được biết và cảm mến sinh hoạt truyền giáo của dòng Đaminh Tại Viễn Đông. Vào dịp thuận tiện, cậu giã từ cha mẹ bạn bè và xin vào tu viện Santo Domingo Ocana của tỉnh dòng Đaminh Rất Thánh Mân Côi, đặc trách truyền giáo ở Viễn Đông.
Ngày 23.09.1842 cùng với bảy thỉnh sinh khác, cậu được lãnh tu dòng Thuyết Giáo. Năm sau (24.09.1843), thày Sanjurjo khấn dòng trong tay bề trên Orge. Vì đời sống đạo đức, nhiều khả năng và ước vọng loan báo Tin Mừng của thày đã được khẳng định ngay từ khi thày đến Ocana, nên sau đó nửa năm, thày được gởi tới Cadiz chuẩn bị đến miền truyền giáo. Tại Cadiz, thày thụ phong linh mục ngày 23.03.1844, và cùng với năm tu sĩ bạn đến Manila (Phi luật Tân) ngày 14.09 năm đó. Sáu tháng sau, vị linh mục trẻ tuổi lại lên đường qua Macao, rồi từ đó đến giáo phận Đông Đàng Ngoài ngày 12.09.1845 với tên Việt là An. Sau thời gian học tiếng Việt, cha được đề cử coi sóc chủng viện tại Nam Am.
Cuộc bách hại năm 1848 của vua Tự Đức đã gây thiệt hại nặng nề cho chủng viện. Cha An và cha Alcazar Hy phải gấp rút giải tán của chủng sinh, cho chôn giấu các đồ thờ phượng, và đau buồn nhìn chủng viện bị tàn phá. Trong thư gởi cho bạn ở quê nhà, cha viết: “Chúng tôi chẳng còn nhà, chẳng còn sách vở quần áo, chẳng còn gì nữa. nhưng chúng tôi vẫn an tâm vì nhớ lời Thày Chí Thánh: con người không có chỗ gối đầu”
Sau đó cha An phải lánh nạn đến Ngọc Cục qua Ninh Cường vài tuần, rồi sang miền Cao Xá. Vì nhiệt tâm với tương lai của giáo phận, cha mở lại chủng viện cho các chủng sinh cũ ngay tại Cao Xá. Thời gian này cha biên soạn cuốn Văn phạm Latinh bằng tiếng Việt.
Vị giám mục phó hăng say
Năm 1848, vì số giáo hữu trong giáo phận gia tăng, Đức cha Hermosilla Liêm xin Tòa Thánh chia khu vực dòng Đaminh thành hai giáo phận. Qua văn thư ngày 05.09, Đức Piô IX thiết lập giáo phận Trung tách địa khỏi phận Đông Đàng Ngoài. Giáo phận Trung gồm hai giáo phận hiện nay là Bùi Chu, Thái Bình với khoảng 140.000 giáo hữu và 624 xứ.
Linh mục Marti Gia khi nghe tin được chọn làm Giám mục giáo phận mới thì tỏ ra lo lắng và đến hỏi ý kiến cha Sanjurjo An đang ờ Trung Lễ. Trong bầu không khí trao đổi thân mật, cha An phân tích các mặt của nhiệm vụ Giám mục với những khó khăn trong thời cấm đạo. Rồi cha đề cập đến các nhu cầu của cộng đoàn dân Chúa, đến vai trò của các phẩm trật. Sau cùng cha đã thuyết phục thành công cha Marti Gia lãnh nhận vinh dự, cũng là gánh nặng chủ chăn giáo phận mới.
Nhưng một điều cha An không ngờ: trong sắc lệnh bổ nhiệm Đức cha Marti Gia, tòa thánh đã cho vị tân Giám mục quyền chọn vị Giám mục phó. Đức cha Gia liền chọn Giám mục phó là cha An, người đã thuyết phục mình nhận chức. Ngày 05.04.1849, cha Sanjurjo An được thụ phong giám mục hiệu tòa Platea cùng với cha Alcazar Hy, người được chọn làm Giám Mục phó cho Đức cha Hernosilla Liêm.
Sau đó, vị tân Giám mục lại trở về Cao xá tiếp tục coi sóc chủng viện. Trong thư gởi gia đình, Đức cha viết “Ở đây chức vụ cao chỉ thêm công việc, con thường phải đi bộ, có khi phải đi chân không, nhiều lần phải lội bùn đến đàu gối, để trốn tránh những người tìm bắt”.
Tháng 03.1850, Đức cha An trao chủng viện cho cha Sampedro Xuyên, rồi đi kinh lý toàn tỉnh Hưng Yên. Nhưng cuộc kinh lý phải bỏ dở vì quan quân truy lùng quá gắt gao. Hai linh mục Việt Nam cùng đi với cha bị bắt. Trở về Cao Xá, Đức cha bị sốt rét nặng một thời gian.
Vị mục tử tận tình
Năm 1852, Đức cha Marti Gia lâm bệnh nặng phải rời bỏ xứ truyền giáo và qua đời ngày 26.4 tại Hương Cảng trong sự luyến tiếc của các giáo hữu Việt Nam. Kể từ đó, Đức cha An phải gánh vác toàn Giáo phận Trung. Ngài về tòa Giám mục ở Bùi Chu và trực tiếp điều hành việc truyền giáo. Số tân tòng gai tăng mau lẹ. Số rửa tội năm 1852 của giáo phận ghi thêm tên của 28.355 người. Đức cha viết: “Đó quả là phần thưởng đầy khích lệ các nhà truyền giáo tiếp tục những trách vụ tông đồ, bất chấp mọi âm mưu của thần dữ, không nản lòng trước những cơ cực thiếu thốn, trước nguy hiểm vây quanh và những nghịch cảnh có thể xẩy đến”.
Năm 1854, Đức cha Sanjurjo An mở lệ trọng thể kính thánh tổ phụ Đaminh tại Lục Thủy, có đông đủ các cha dòng triều, các chủng sinh, nữ tu và trên 20.000 giáo hữu khắp nơi về tham dự. Sau lễ, Đức cha họp hội đồng giáo phận để thảo luận về nhiều vấn đề có ích lợi chung. Ngài con tổ chức thi kinh bổn giữa các giáo xứ và các buổi tranh luận về tôn giáo. Có lần ngài viết một số vấn nạn về giáo lý bằng chữ hán phát cho các thày Nho. Đến ngày hẹn, khoảng 30 thày, đa số ngoài công giáo đến dự cuộc. Đức cha khai mạc và nói vài lời gợi ý, sau đó để các thày tự do phát biểu. Mọi thắc mắc đều được Đức cha giải đáp thỏa đáng, khiến các thày và dân chúng trong huyện đó phải khâm phục.
Năm 1855, ba cha dòng mới từ Macao tới Việt Nam đem theo sắc lệnh đặt Đức cha An làm Giám mục đại diện Tông tòa giáo phận Trung, và trao quyền chọn phụ tá. Đức cha đã chọn cha Sampedro Xuyên và tổ chức lễ tâùn phong giám mục ngày 19.09 tại thánh đường Bùi Chu, với sự tham dự của 49 linh mục và đông đảo giáo dân, đến nỗi khu vực Bùi Chu không đủ nhà để trọ. Số trẻ ngoại đạo được rửa tội trong năm này là 35.349 em.
Giông tố bách hại.
Từ năm 1854, tại miền Bắc có giặc Châu Chấu của Lê Duy Cự và Cao Bá Quát. Nhóm này hứa hẹn và cổ động giới công giáo tham gia nổi loạn, nhưng rất ít người theo vì Đức cha đã lên tiếng cấm chống lại chính quyền. Nhờ đó, các quan địa phương nới tay trong việc thi hành sắc lệnh của nhà vua. Tổng đốc Nguyễn Đình Tân biết rất chính xác trụ sở Tòa Giám mục, nhưng không muốn bắt, ông còn hứa hẹn nếu bất đắc dĩ phải đem quân truy nã thì ông sẽ cho báo trước.
Tháng 5.1857, đúng lúc có viên quan Thượng thư từ kinh đô ra Nam Định, thì Chánh Mẹo ở làng Thoại Miêu lên tỉnh tố cáo rằng: “Có đạo trưởng Tây tên An ở Bùi Chu”. Vì có quan trên, quan Tổng đốc buộc lòng phải ra lệnh truy bắt, nhưng cũng báo cho Đức cha, tiếc rằng tin đến nơi thì Đức cha đã bị bắt. Khi quân lính đến bao vây, Đức cha luống cuống chạy ẩn đến bốn chỗ và cuối cùng, ngài ngồi giữa một bụi tre khá kín đáo. Nhưng đúng lúc ngài ngó đầu ra xem lính đi chưa, thì bị phát hiện và bị bắt. Quân lính tước đoạt Thánh Giá và nhẫn Giám mục, sau đó trói ngài dẫn đi. Rồi họ kéo nhau vào nhà chung để cướp của và thiêu hủy những gì họ không đem đi được.
Sau một đêm bị giam tại phủ Xuân Trường, vị anh hùng đức tin được quan quân giải về Nam Định. Tại đây, Tổng đốc Nguyễn Đình Tân tỏ ra tiếc khi thấy Đức cha bị bắt, nhưng vì sợ quan Thượng Thư nên phải xử với ngài như tù phạm. Đức cha bị biệt giam hai tháng, chỉ còn ba lần một linh mục giáo phận vào ban bí tích, và một lần người của Đức cha Retord Liêu vào thăm. Tuy bị xiềng xích gông cùm, Đức cha An luôn bình tĩnh vui vẻ đón chờ phúc tử đạo. Nhiều lần quan bắt ngài đạp lên Thánh Giá nhưng ngài cương quyết từ chối.
Nhát gươm di chúc.
Ngày 20.07.1857, có án tử hình từ kinh đô ra, truyền chém đầu “Tây dương đạo trưởng tên An”. Trên đường ra pháp trường Nam Định, Đức cha An, tay cầm sách nguyện, vừa đi vừa suy niệm, vẻ mặt bình thản. Đến nơi xử, quân lính vây quanh ngài ba vòng: vòng trong cầm gươm, vòng giữa cầm giáo, vòng ngoài cầm cờ, cưỡi ngựa, cưỡi voi. Đức cha An xin hoãn một lát, rồi lớn tiếng nói đôi lời với những người có mặt, sau đó nói với viên chỉ huy: “Tôi xin gởi quan 30 đồng tiền để xin một ân huệ: xin đừng chém tôi một nhát, nhưng là ba nhát. Nhát thứ nhất tôi tạ ơn Chúa đã dựng nên tôi, và đưa tôi đến đất Việt giảng đạo. Nhát thứ hai để nhớ ơn cha mẹ sinh thành ra tôi, còn nhát thứ ba như lời di chúc cho các bổn đạo của tôi, để họ bền chí chết cho đức tin, theo gương vị chủ chăn của mình. Và như thế họ đáng lãnh phần hạnh phúc cùng các thánh trên trời”.
Đức cha vừa dứt lời, quân lính trói ngài vào cây cọc hình Thập Giá. Dân chúng òa lên khóc. Lý hình chém Đức cha ba nhát như ngài xin. Đầu và mình của vị tử đạo bị liệng xuống sông. Có hai người lính thấm máu vị tử đạo liền bị tống giam. Đồ đạc, sách vở của Đức cha đều bị đốt. Chén lễ, áo lễ thì trao cho đoàn văn nghệ sĩ sử dụng. Đến sau dân chài lưới đã vớt được thủ cấp vị tử đạo. Đức cha Xuyên an táng thủ cấp này tại Bùi Chu, một thời gian sau, tu viện Santo Domingo ở Ocana xin rước cốt của Đức cha An về tôn kính từ năm 1891, vì Đức cha là vị tử đạo tiên khởi của tu viện.
Ngày 29.04.1951, Đức Thánh Cha Piô XII suy tôn Đức cha Giuse Diaz Sanjurjo lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.
Lm. Đào Trung Hiệu, OP