Bài đọc 1 sách Sáng Thế (St 18:20-32) nói về việc Thiên Chúa sẽ hủy giệt hai thị trấn Sodom và Gomorrah vì dân chúng ở đó tội lỗi quá nhiều. Nhưng Abraham đã cầu khẩn Chúa tha thứ vì trong đó cũng có những người công chính. Chúng ta hãy coi cách Abraham cầu xin Chúa và Chúa Giesu dạy chúng ta phải cầu nguyện thế nào.
CẦU NGUYỆN CỦA ABRAHAM
Khi Abraham nghe biết Thiên Chúa sẽ sử phạt hai thành Sodom và Gomorrah trong đó có ông Lot là cháu ông đang cư ngụ, ông bèn cầu xin Chúa tha bằng cách đặt vấn đề thương lượng với Chúa: Vậy Chúa sẽ hủy giệt cả những kẻ vô tội cùng với những kẻ tội lỗi sao? (18:23). Abraham van nài tình thương của Chúa xin đừng hủy giệt cả hai thị trấn này!
Thiên Chúa ra điều kiện nếu trong tỉnh có được 50 người công chính thì Chúa tha cho cả tỉnh. Abraham đã từ từ giảm số người công chính xuống còn 10 người. Sự khác biệt này vẫn còn phù hợp với điều kiện Thiên Chúa đã đưa ra để tha không hủy giệt cả thàng (18:28-32). Sau khi Abraham nắm được điều kiện 50 người công chính thì Thiên Chúa đã phán: “Vì chúng mà ta sẽ tha cho tất cả” (18:26).
Câu chuyện Abraham cứu được thành Sodom không phải là ván bài con số nhưng là ý nghĩa của ơn cứu độ cho những người công chính trong một cộng đồng tha hóa đầy dẫy tội lỗi. Abraham đã can thiệp là vì niềm tin: Yêu Chúa nồng nhiệt thì nhất định không thể thất bại, ngay cả trong những môi trường xã hội tội lỗi, vô luân, đồi bại.
CẦU NGUYỆN LÀM SAO ĐỂ THÀNH CÔNG
Làm sao để cuộc cầu nguyện thành công? Trước tiên phải rõ ràng và dễ hiểu. Thứ đến phải hữu lý và trình bày một cách thuyết phục. Thứ ba, đòi hỏi phải cương quyết và bền chí. Tóm lại phải rõ ràng, hữu lý và kiên quyết, nhất định không bỏ cuộc.
Abraham đã có đầy đủ cả 3 yếu tố căn bản đó. Ông làm nổi bật niềm tin và những đức tính tốt của ông Lot, không phải ông Lot có họ hàng với ông. Dù không nói rõ đòi hỏi của mình, Abraham đã trình bày cho Chúa ước mong của mình làm sao đánh động lòng thương xót của Chúa: Xin hãy cứu những kẻ thờ phượng Chúa và ăn ngay ở lành! Xin hãy tin những người tin tưởng nơi Chúa; xin hãy thương xót những người biết xót thương người. Abraham kiên trì cầu xin cho đến khi Chúa đồng ý với con số 10 người công chính (18:26-32).
Con số 10 không phải là số người trong gia đình ông Lot mà là số người tối thiểu có niềm tin cần thiết để tạo thành một cộng đồng tín hữu, cũng là lý do để có một cộng đồng cầu nguyện theo truyền thống. Con số 10 cũng là số tối thiểu cấn thiết để có cuộc cầu nguyện chung, và số tối thiểu phải có để thi hành việc tế tự trong hội đường.
Khi cầu nguyện, chúng ta nên bắt chước Abraham. Cầu nguyện với một ước muốn rõ ràng, kiên trì và theo ý hướng của Chúa, ngay cả khi chúng ta xin một điều rất nhỏ.
CẦU NGUYỆN LÀ TRỌNG TÂM ĐỜI SỐNG KITÔ GIÁO
Luca đã trình bày cách Chúa Giesu cầu nguyện như là khuôn mẫu để chúng ta noi theo. Cầu nguyện là nói chuyện với Thiên Chúa, đối thoại giữa Thiên Chúa và gia đình nhân loại với tâm hồn cởi mở. Cầu nguyện phải liên tục, vì đó là dấu chỉ của niềm tin đối với Thiên Chúa. Cầu nguyện không phải là gây áp lực để đạt được ước muốn của mình. Cầu nguyện đúng nghĩa là mở rộng tâm hồn mình để cho Chúa Thánh Thần hoạt động, dẫn đưa chúng ta vào đường hướng của Chúa, và làm cho chúng ta trở thành môn đệ Chúa, biết vâng lời chúa Giesu và Chúa Cha là đấng đã sai Người xuống thế. Cầu nguyện để trở nên một với Chúa, nhờ đó chúng ta bước theo Chúa sống đời Kito giáo.
BA GIAI ĐOẠN CỦA CẦU NGUYỆN
Luca trình bày trong bài Phúc Âm hôm nay 3 giai đoạn cầu nguyện. Thứ nhất, Chúa Giêsu dạy các môn đệ và cả cộng đồng Kitô Giáo “kinh Lạy Cha” (11:1-40). Thứ hai phải bền bỉ (11:5-8). Thứ ba hiệu quả của cầu nguyện (11:9-13).
Trong Mátthêu, kinh “Lạy Cha” (6:9-15) nằm trong diễn trình của “bài giảng trên núi”. Luca kể lại khi thấy Chúa Giêsu cầu nguyện thì các môn đệ xin Người dạy các ông cầu nguyện như Gioan đã dạy các đệ tử (11:1-4). Chúa Giêsu đã đáp ứng và dạy các ông kinh “Lạy Cha”. Chúa trình bày cho các ông dưới hình thức một cộng đồng Kitô hữu cầu nguyện chung và nhấn mạnh đến tình cha con mà Thiên Chúa là Cha và là đấng mà người môn đệ Kitô Giáo cần phải có như của ăn hằng ngày (11:3), lòng tha thứ (11:4), và được cứu thoát trong giờ phán xét sau cùng (11:4).
CẦU NGUYỆN CỘNG ĐỒNG
Chúa Giêsu dạy 12 môn đệ kinh “LẠY CHA” với tư cách là Tông đồ, đồng thời cũng là những người đồng trách nhiệm đối với cộng đồng. Đây là kinh cầu nguyện của các Tông đồ, không nhắm vào cá nhân mà là tập thể đồng trách nhiệm và tình liên đới.
Khi cầu nguyện cho “Nước Chúa Trị Đến”, chúng ta tỏ lòng ước muốn được nhìn thấy ngày Chúa khải hoàn, nước Chúa thống trị vinh quang thực sự, không còn là hy vọng mơ hồ mà là một thực tế hiển nhiên. Linh hồn chúng tôi không bao giờ thõa mãn cho đến khi Thiên Chúa được vinh danh và tung hô trước muôn loài. Phải chăng cũng là lời ước nguyện xuất phát tự đáy lòng, khi nào thì thế giới ma quỉ, tội ác và tử thần bị hủy diệt?
Khi chúng ta cầu có đủ cơm ăn, là chúng ta xin điều gì hơn cả cơm gạo và lương thực.
Chúng ta cầu xin Đấng Sáng Tạo sự sống những nhu cầu đời sống: “Lạy Chúa, xin ban cho chúng con những thứ cấn thiết để chúng con vui hưởng tặng phẩm Chúa ban là sự sống –cơm gạo hôm nay và ngày mai để chúng con sống là một cộng đồng”
Chúng ta cầu xin: “Xin Chúa tha tội cho chúng con cũng như chúng con tha nợ cho những kẻ nợ chúng con”. Câu này phản ảnh nỗi ưu tư của Luca vì của cải sẽ cản trở tình thân hữu trong cộng đồng. Thỉnh nguyện sau cùng rất có thể là ngày cánh chung: Xin đừng phán xét chúng tôi. Đây là thử thách lớn lao cuối cùng và một hấp hối của ác quỉ trước ngày tận thế.
Kinh “Lạy Cha” cũng là kinh của người nghèo, của những người đau khổ cơ cực. Đây có thể là kinh đầu tiên và cũng là kinh cuối cùng mà chúng ta chưa bao giờ đọc trước khi nhắm mắt trong cuộc đời .
TẶNG PHẨM BẢO ĐẢM CỦA CHÚA
Dụ ngôn người bạn gõ cửa mượn bánh vào nửa đêm cũng đưa ra một sứ điệp như một lời cầu nguyện. Ông chủ nhà khó tính nói “tôi đang ngủ, anh đừng quấy rầy tôi, …” so với Thiên Chúa nhân từ thì Thiên Chúa có ban cho chúng ta nước trời không? (Lc 12:32).
Phần kết luận “cứ xin thì sẽ được” (Lc 11:9-13) là để trả lời cho phần của người bạn khó tính bị quấy rầy giữa đêm. Tương tự như vậy, nếu cha mẹ cho con quà tặng tốt thì Thiên Chúa là đấng tốt lành hơn sẽ cho nhiều đến đâu. Kết quả tặng phẩm Chúa ban sẽ vô cùng lớn lao hơn nhiều, hơn cả quà tặng của cha mẹ. Chúa sẽ mở lòng chúng ta để cho Chúa Thánh Thần họat động, mang chúng ta vào đường hướng và mong ước của Chúa, làm cho chúng ta thành những môn đệ thực sự, biết vâng lời Chúa Giesu và Đức Chúa Cha.
Để kết luận, xin trích câu #239 sách Giáo Lý Công Giáo nói về ý tưởng cầu nguyện Thiên Chúa là CHA mà Luca đã nói trong bài Phúc Âm hôm nay:
Khi gọi Thiên Chúa là Cha, ngôn ngữ của đức tin đã chủ yếu nêu rõ hai phương diện: Ngài là nguồn gốc trên hết của vạn vật và có ưu quyền siêu việt –đồng thời Ngài là Đấng nhân hậu và thương yêu lo lắng cho tất cả các con cái mình. Sự dịu hiền phụ mẫu của Thiên Chúa cũng có thể được biểu lộ bằng hình ảnh của người mẹ (Is 66:13; Tv 131:2) và tình mẫu tử nói rõ hơn về tính nội tại của Thiên Chúa, về tình thân mật giữa Thiên Chúa và tạo vật của Ngài. Như vậy ngôn ngữ của đức tin đã lấy trong kinh nghiệm của con người về cha mẹ mình, vì một cách nào đó, cha mẹ là những vị đại diện đầu tiên của Thiên Chúa đối với con người. Nhưng kinh nghiệm cho thấy cha mẹ là những người có thể sai lầm và làm méo mó hình ảnh của tình mẫu tử. Bởi vậy nên nhắc lại rằng Thiên Chúa vượt trên sự phân biệt nam nữ của con người. Ngài không phải người nam cũng chẳng phải người nữ, Ngài là Thiên Chúa. Ngài cũng siêu việt trên tình phụ tử và tình mẫu tử của con người (Tv 27:10), mặc dù Ngài là nguồn gốc và thước đo của hai tình đó (Ep 3:14; Is49:15): không ai là cha như Thiên Chúa.
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh