CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN – NĂM A
Lời Chúa: Is 22, 19-23; Rm 11, 33-36; Mt 16, 13-20
———————
-
Đấng Giữ Chìa Khóa Nhà Đavít (Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB)
-
Cầm buộc và thảo cởi (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
-
Tôi biết tôi được yêu thương (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
-
Tuyên xưng Đức Kitô (Lm. Thái Nguyên)
-
Tôi đã làm gì để bảo vệ Giáo hội? (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
-
Đức Kitô đang sống (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
-
Thầy là ai? (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
-
Chìa khóa Nước Trời (Maria Phạm Anh, MTG.Thủ Đức)
-
Sự hiện hữu của Thiên Chúa(Maria Nguyễn Huệ, MTG.Thủ Đức)
-
Thầy sẽ xây Hội thánh trên tảng đá này (Lm. Trần Bình Trọng)
-
Chìa khóa trường sinh (Lm. Vũ Đình Tường)
-
Chìa khóa và đá tảng (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
-
Chiếc chìa khóa (Trầm Thiên Thu)
-
Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 21 TN_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
ĐẤNG GIỮ CHÌA KHÓA NHÀ ĐAVÍT
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền,OSB
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Thường Niên XXI, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: chỉ có Chúa mới có thể làm cho chúng ta trở nên một lòng một ý, vì thế, chúng ta phải xin cho mình biết yêu mến luật Chúa truyền và mong điều Chúa hứa, để dù sống giữa những thế sự thăng trầm, chúng ta vẫn một lòng gắn bó với cõi phúc chân thật.
Phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, vì Nước Trời là của họ. Người bệnh thì mới cần đến thầy thuốc. Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, ngôn sứ Xôphônia đã cho thấy: Những kẻ thi hành mệnh lệnh của Đức Chúa, những người tìm kiếm Đức Chúa, tìm kiếm sự công chính, đức khiêm nhường, họ là những người nghèo hèn trong xứ sở. Bài đọc hai của giờ Kinh Sách được trích từ Hiến chế mục vụ Vui Mừng và Hy Vọng của Công Đồng Vaticanô II, về Hội Thánh trong thế giới ngày nay nói: đang khi chúng ta nỗ lực lo cho trái đất này ngày một tốt đẹp hơn, thì chúng ta cũng đang hướng về một vương quốc vĩnh cửu và phổ quát, vương quốc đầy tràn sự thật và sự sống, đầy tràn ân sủng và thánh thiện, đầy tràn tình thương, công lý và bình an, đúng như tâm tình mà ngôn sứ Isaia mời gọi: Trời hãy hò reo, đất hãy nhảy múa, núi non hãy bật tiếng hò reo, vì Thiên Chúa chúng ta ngự đến. Người chạnh lòng thương những kẻ nghèo khổ của Người.
Quả thật, những người yêu mến luật Chúa truyền và mong điều Chúa hứa đều là những người đơn sơ bé mọn. Họ không có niềm trông cậy nào khác, ngoài một mình Chúa, bởi vì, chỉ có một mình Chúa là đầu mối, nguồn gốc mọi sự, như trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô đã cho thấy: muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Do đó, cũng chỉ có một mình Chúa mới làm cho chúng ta nên một lòng một ý. Đức Giêsu không thiết lập nhiều Hội Thánh, nhưng, chỉ có một Hội Thánh duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Quyền chìa khóa của thánh Phêrô được lãnh nhận từ Đức Kitô, chính Người là Đầu của Hội Thánh. Chính Người là Đấng giữ chìa khoá vua Đavít, Người mở ra thì không ai đóng lại được, Người đóng lại thì không ai mở ra được.
Trong bài đọc một của Thánh Lễ, ngôn sứ Isaia đã tiên báo: Chìa khoá nhà Đavít, Đức Chúa sẽ đặt trên vai Engiakim, vua Giuđa, ông mở ra thì không ai đóng được, ông đóng lại thì không ai mở được. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã trao cho thánh Phêrô chìa khóa Nước Trời: Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh ràng buộc điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy. Bài Đáp Ca, với Thánh Vịnh 137, vịnh gia cho thấy: Chúa tuy thật cao cả, nhưng vẫn nhìn đến kẻ thấp hèn; đứa ngạo mạn ngông nghênh, từ xa Ngài đã biết. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang. Chắc chắn, Chúa sẽ không để cho công trình của Người bị dở dang, nhưng, với tự do của mình, chúng ta có thể làm cho công trình của Chúa bị dang dở nơi chúng ta.
Ơn cứu độ là một ân huệ nhưng không, chúng ta được cứu độ là do bởi ân sủng, nhưng, không phải một ân sủng chung chung, mà là, ân sủng của Đức Kitô; chúng ta được cứu độ là do bởi đức tin, nhưng, không phải một đức tin chung chung, mà là, đức tin vào Đức Giêsu. Do đó, chỉ có một mình Đức Giêsu Kitô là Đấng Cứu Độ Duy Nhất, chính Người là Đấng giữ chìa khóa nhà Đavít, là cửa dẫn chúng ta vào hưởng ơn cứu độ. Công trình cứu độ của Chúa sẽ dở dang, nếu chúng ta không cộng tác: không để cho Người làm cho chúng ta nên một lòng một ý, để chúng ta có thể tuân giữ luật Người truyền và trông đợi điều Người hứa.
Niềm hy vọng của chúng ta vào lời hứa của Chúa được thể hiện qua việc dù sống giữa những thế sự thăng trầm, chúng ta vẫn một lòng gắn bó với cõi phúc chân thật. Sống giữa thế gian, nhưng, không thuộc về thế gian. Đây là một thách đố lớn đối với những người môn đệ của Đức Giêsu. Ađam và Eva đã chọn ăn trái cấm, bởi vì, ông bà đã không tuân giữ lời Chúa truyền, và cũng chẳng mong điều Chúa hứa. Ông bà đã tin rằng: ông bà đã chọn một cái gì đó lớn hơn điều Chúa hứa.
Thánh Phêrô được trao chìa khóa Nước Trời, sau khi thánh nhân tuyên xưng: Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa Hằng Sống. Chính trên niềm tin đá tảng này, mà Đức Giêsu đã đặt nền móng xây dựng Hội Thánh. Niềm tin đặt nơi Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, hằng vâng phục thánh ý Chúa Cha, và hoàn toàn tín thác nơi Cha: đến đổ giọt máu, giọt nước cuối cùng, chết tủi nhục trên thập giá để hoàn tất thánh ý cứu độ nhân loại, chính niềm tin đó sẽ giúp chúng ta can đảm, kiên cường khi đối mặt với những khó khăn, thử thách của cuộc sống. Chúng ta vững tin rằng: mình sẽ chiến thắng được các thế lực tăm tối, nhờ bám chặt vào quyền năng của Đức Giêsu, Đấng nắm giữ chìa khóa nhà Đavít. Nước Trời luôn rộng cửa đón mời chúng ta, nhưng, nếu chúng ta không tỉnh thức, sẵn sàng, chúng ta sẽ bị bỏ lại bên ngoài cửa như những cô khờ dại mang đèn, nhưng không mang theo dầu.
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Nói đến chìa khóa là người ta nghĩ đến việc mở hay đóng cửa. Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay trao cho ông Phêrô chìa khoá, nhưng Người lại nói đến việc cầm buộc và tháo cởi: “Thày sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy”. Phêrô vừa thay mặt anh em để tuyên xưng đức tin: “Thày là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống!”. Sau lời tuyên xưng Đức tin của vị tông đồ, Chúa đã đổi tên cho ông từ Simon thành Phêrô, nghĩa là Đá Tảng và trao cho ông quyền cầm buộc và tháo cởi. Quyền này thật lớn lao, đến nỗi trên trời cũng sẽ dựa theo quyền này để quyết định tương lai của một con người, hoặc bị trừng phạt, hoặc được thưởng công. Hai ngàn năm đã qua, Giáo Hội tiếp nối Phêrô lãnh nhận và thực thi quyền này. Nhờ quyền ràng buộc và tháo cởi, Giáo Hội duy trì trật tự nội bộ, đóng góp phần mình xây dựng xã hội trần gian, đồng thời phản chiếu tình thương của Thiên Chúa cho con người của mọi thời đại, mở ra cho muôn dân con đường đến gặp gỡ Đức Kitô và đón nhận ơn cứu độ.
Ý tưởng cầm buộc và tháo cởi được Đức Giêsu nhắc lại một lần nữa, cũng trong Tin Mừng thánh Mátthêu, ở chương 18, câu 18: “Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy”. Nếu ở Mt 16, 19, Chúa trao chìa khoá cho cá nhân Phêrô, thì ở đây, Chúa lại trao chìa khoá cho Cộng đoàn Giáo Hội, với danh nghĩa tập thể. Giáo Hội được ủy thác thay mặt Chúa để hướng dẫn con người đạt tới sự thánh thiện. Giáo Hội là một người mẹ, cưu mang, sinh hạ và chăm sóc các tín hữu. Ai nghe lời Giáo Hội là nghe lời Chúa. Ai hiệp thông với Giáo Hội là hiệp thông với Chúa. Giáo Hội không chỉ là cơ chế của loài người, nhưng trước hết là một tổ chức do Chúa Giêsu thiết lập, là trung gian thông chuyển ơn cứu độ đến cho hết mọi người. Chính Giáo Hội quản lý kho tàng Đức tin và có sứ mạng thông truyền Đức tin cho con người thuộc mọi thời đại và mọi nền văn hóa.
Hình ảnh chiếc chìa khoá cũng được nhắc đến trong Bài đọc I. Đây là chìa khoá Đavít, tượng trưng cho quyền lực của người lãnh đạo dân Israen. Vị tể tướng triều đình thời đó là Sép-na. Ông này vì bê bối và bất trung, nên Thiên Chúa loại bỏ. Qua ngôn sứ Isaia, Chúa phế bỏ Sép-na và thiết lập người thay thế là Engiakim. Người này sẽ được trao chìa khoá nhà Đavít và có quyền đóng cũng như mở. Sở dĩ đoạn Kinh Thánh Cựu ước này được đọc trong Phụng vụ, vì nhãn quan Kitô giáo nhận ra, Engiakim là hình ảnh của Đấng Thiên Sai. Người đến trần gian với quyền lực lãnh nhận từ Đấng Tối cao. Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Người được trao toàn quyền trên trời dưới đất (x. Mt 28,18). Người là Đấng được các vị kỳ lão trong sách Khải Huyền tung hô: “Con Chiên đã bị giết nay xứng đáng lãnh nhận phú quý và uy quyền, khôn ngoan cùng sức mạnh, danh dự với vinh quang, và muôn lời cung chúc” (Kh 5,12). Người cũng là Đấng duy nhất có khả năng mở bảy ấn, vừa bày tỏ quyền năng của Thiên Chúa, vừa ổn định trật tự trần gian (x. Kh, chương 6).
Chúa Giêsu là Đấng Thiên Sai. Tuy vậy, trải qua mọi thời đại, con người cũng như sứ mạng của Chúa bị nhiều người hiểu sai lạc, thậm chí có người cố ý xuyên tạc hay làm cho hình ảnh của Người bị biến dạng. Có nhiều người quan niệm về Đức Giêsu như một nhân vật huyền thoại, hoặc chỉ là một vĩ nhân như bao vĩ nhân khác của lịch sử. Một số khác lại coi Chúa như một chính trị gia, hay chỉ là một bậc thày về những tư tưởng đạo đức. Họ kính trọng Chúa, nhưng không công nhận Người là Thiên Chúa và là Đấng Thiên Sai. Điều này dễ hiểu. Bởi lẽ sứ mạng của Chúa được Chúa Cha trao phó. Con người không thể hiểu thế giới thần linh, vì “sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Ngài, ai suy cho thấu!” (Bài đọc II). Các môn đệ đã theo Chúa được vài năm, mà nay khi Người đặt câu hỏi về thân thế và sứ mạng của Người, các ông còn lúng túng: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, người khác thì cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ”. Thì ra các môn đệ cũng chỉ dựa vào dư luận và những lời đồn. Chúa muốn mỗi người hãy suy tư và tự đưa ra quan điểm của mình: “Còn anh em, anh em nói Thày là ai?”. Tin vào Chúa không thể dựa trên những lời đồn thổi, nhưng là sự hiểu biết kèm theo niềm xác tín nơi Người. Phêrô đã thưa: “Thày là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Người tín hữu chân chính phải xác định rõ Chúa Giêsu là ai trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa và Người là ai đối với đời sống của mình. Một Đức tin mờ nhạt mông lung không thể làm nền tảng cho cuộc đời của người tín hữu. Nó giống như ngôi nhà được xây trên cát, lúc bão tố mưa sa dễ dàng bị đổ sập. Một lối sống chỉ dựa vào dư luận của đám đông mà không dựa trên những tiêu chuẩn của giáo huấn Tin Mừng sẽ không chắc chắn vì luôn bị thay đổi cho hợp thời.
“Phần anh em, anh em nói Thày là ai?”. Chúa Giêsu vẫn đang đặt câu hỏi ấy đối với mỗi tín hữu chúng ta. Câu hỏi ấy được đặt ra trong cuộc sống đời thường, nhất là trong cuộc gặp gỡ giữa chúng ta với Chúa, vào lúc sau hết của cuộc đời. Không thể vừa tuyên xưng Chúa Giêsu là Chúa của đời mình, vừa sống trái ngược với Tin Mừng Người rao giảng. Không thể vừa tuyên xưng Đức Giêsu là Sự thật, vừa sống trong sự dối trá với anh chị em mình.
Quyền cầm buộc và tháo cởi mà Chúa đã trao cho Phêrô và Giáo Hội, không chỉ được hiểu như những hình phạt chế tài, mà còn quảng diễn tình yêu thương vô bờ của Thiên Chúa. Ngài không muốn cho con người phải trầm luân đời đời, nhưng được sống trong hạnh phúc đời này và đời sau. Mỗi người tín hữu hãy cảm nhận tình thương ấy, và là chứng nhân đem tình thương đến cho mọi người.
Lm. Jos. DĐH.
Đã bao nhiêu lần bạn tự tin chứng minh với con cháu: bố mẹ thật hạnh phúc, bởi được sinh ra và trưởng thành từ dòng tộc “biết yêu thương”. Có phải vì mầu cờ sắc áo, vì danh dự tổ quốc, bạn đã và từng nghiêm túc, sống kỷ luật với bản thân, gia đình, quê hương xứ sở của mình. Bậc làm cha mẹ có vượt qua gian khổ là do các ngài đã nghĩ đến tương lai của con cháu. Chính nhờ được chăm sóc giáo dục, nhờ tác động của gương sáng, con cháu mới đủ ý thức về nét đẹp của câu thành ngữ: anh em như thể chân tay, rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần. Đâu phải tự nhiên mà tiền nhân lại nhắc nhớ hậu thế: nhàn cư vi bất thiện. Không phải vô tình mà các bậc thông thái biết chia sẻ kinh nghiệm: có vấp ngã, người ta sẽ cẩn thận hơn, mỗi khi cất bước. Có đối diện với đau thương, trí lòng sẽ bớt mềm yếu, cuộc sống có căng như sợi dây đàn, mới tạo được âm thanh tuyệt diệu.
Dư luận nói Thầy là ai ? Phần các con, các con bảo Thầy là ai ? Chắc chắn không ai nghĩ là Thầy Giêsu có ý thăm dò đám đông để biết Thầy nổi tiếng tới đâu, hoặc có ý đong đo sự nhạy bén nơi các học trò. Đúng, Thầy muốn nói với muôn thế hệ về giá trị tình yêu, Thiên Chúa sẽ thông ban cho nhân loại qua các môn đệ của Ngài. Ở đời người ta cho rằng, thành công không hệ tại giầu sang địa vị, cũng không phải có con cháu xinh đẹp, tài giỏi, chung chung, họ vẫn quan niệm thành công là phải có bầu khí bình an, niềm vui, các thành viên gia đình đều chu toàn được bổn phận và trách nhiệm. Chúa Giêsu đã cho các môn đệ, cho con cái loài người xác tín, chính Phêrô đã phản ứng nhanh nhất trong số các học trò, không phải vì Phêrô tài giỏi đức độ, mà do ông được yêu thương nhiều hơn.
Câu trả lời vô thưởng vô phạt: hình như, có thể, có lẽ, bao giờ cũng chỉ là câu đối đáp xã giao, vậy vậy thôi. Nói được những lời ngọt ngào yêu thương trên môi miệng, đã là thành công đối với con người mang tính giới hạn rồi. Chúa Giêsu ngay từ ban đầu, Ngài đã muốn các môn đệ theo Chúa phải chứng minh bằng sức mạnh của ý chí, của con tim, đặc biệt phải ý thức đó là tình yêu của Chúa Cha soi sáng. Đọc lại diễn tiến cuộc đối thoại giữa tình Thầy trò Giêsu, thiết tưởng các học trò bị bất ngờ với câu hỏi khó: “phần các con, các con bảo Thầy là ai ?”. Xem ra, Thầy Giêsu phải ngạc nhiên vì một ngư phủ mang tên Phêrô đã phản ứng thật chính xác: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”.
Ở đời, người ta chỉ vội vàng không để vụt mất cơ hội làm giầu, không bỏ lỡ cơ hội để được nổi tiếng: phúc bất trùng lai, dịp may, điều thuận lợi, đến rất ít, do đó phải biết tận dụng. Chúa Giêsu thì không trì hoãn niềm vui cho Phêrô, cho các học trò: “hỡi Simon con ông Giona, con có phúc, vì chẳng phải xác thịt hay máu huyết mạc khải cho con, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Sau khi công bố về ơn ban đặc biệt mà Phêrô đã nhận biết Đấng Kitô Con Thiên Chúa, Thầy Giêsu đã lập Hội Thánh trên nền đá Phêrô, trên sự bé nhỏ hèn mọn, khác với sự thông thái khôn ngoan như các luật sĩ biệt phái. Ngay tự ban đầu, chắc chắn Phêrô đã mập mờ, không hiểu được hết giá trị của tình yêu và trách nhiệm với sứ vụ vừa được trao ban. Phêrô đã lấy tư cách vị trí đứng đầu trong nhóm 12, trấn an, can ngăn Thầy, và Thầy Giêsu đã quở trách, nhắc ông: Phêrô, hãy đi đằng sau Thầy. Dao sắc không gọt được chuôi ; áo mặc sao qua khỏi đầu ?
Tôi biết tôi được yêu thương, chắc không phải do đức độ tự nhiên, cũng chẳng phải là mới tốt nghiệp “bách khoa tổng hợp”, nhưng là nhờ Thầy Giêsu đạo tạo, huấn luyện. Tảng đá Phêrô chính là sứ vụ, là sự tín nhiệm, là sự trao gởi trách nhiệm, không phải do tài đức, mà đúng hơn là vì được yêu thương: “con là Đá, trên Đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Phêrô đi sau Thầy của mình được gọi là Đá, đi đằng sau Thầy, Phêrô mới mang trong mình sức mạnh và tình yêu của Đấng Kitô. Tảng Đá Phêrô chỉ vững chắc thật, khi có Đức Kitô, khi đã biết khóc lóc ăn năn, khi đã đứng dậy sau ba lần chối Thầy.
Có 3 điều trong cuộc đời mỗi người, nếu đi qua sẽ không thể lấy lại được: thời gian, lời nói, cơ hội. Có 80 năm, cùng lắm là một thế kỷ để sống, để làm người tốt, nếu không nhận ra mình được yêu thương, hẳn thế gian sẽ xem “bạn” là một anh khờ, là một con rối ở xã hội mà thôi. Thầy Giêsu mà đám đông năm xưa cho là Gioan Tẩy giả, là Giêrêmia, là một tiên tri nào đó, chỉ mang tính thời sự, cho dù Thầy xinh đẹp, tài giỏi, đức độ, thu hút. Mỗi chúng ta có môi miệng, có thời gian, cơ hội, hãy mau tuyên xưng niềm tin: Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa hằng sống, bằng con tim khối óc, bằng hành động, bằng chính sự khôn ngoan sáng suốt nhất. Đấng Kitô Con Thiên Chúa vẫn mãi là tình liên đới hiệp thông của lời nói, việc làm, và sứ vụ riêng, phải được chu toàn. Đấng Kitô là Con Thiên Chúa phải là lời tuyên tín chân thực: tôi là ai, tôi là kẻ tội lỗi được thứ tha, tôi biết tôi được yêu thương. Amen.
Lm. Thái nguyên
Suy niệm
Nhìn vào bối cảnh dân Israel thời của Chúa Giêsu, chúng ta thấy toàn dân đang trông chờ một Đấng Mêsia. Đến khi Chúa Giêsu xuất hiện với những lời giảng dạy mới mẻ, đầy quyền năng, thì dân chúng lầm tưởng Người là Gioan Tẩy Giả, là Êlia hoặc là một ngôn sứ thời xưa đã sống lại. Chúa Giêsu không quan tâm đến việc dân chúng nghĩ gì về mình mà chỉ nhằm đến các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô liền tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Câu trả lời đúng như Chúa Giêsu muốn, nhưng Ngài cho biết, không phải tự ông biết điều đó, mà do Chúa Cha mạc khải.
Chính lúc đó, Chúa Giêsu biết rằng đã đến lúc Ngài phải khởi đầu việc đặt nền móng xây dựng một tòa nhà thiêng liêng, nên đã tuyên bố Phêrô là Tảng Ðá để xây Hội Thánh của Ngài, và trao cho ông chìa khóa Nước Trời. Một quyết định xem ra bất ngờ, và làm mọi người ngỡ ngàng, vì Phêrô cũng chỉ là một ngư phủ bình thường, ít học. Chắc chắn vì hiểu được Ý Cha trong biến cố này, nên Ngài đã làm như vậy.
Nhìn lại cuộc trắc nghiệm của Chúa Giêsu, chúng ta thấy niềm tin của đám đông rõ ràng còn phiến diện, nhưng niềm tin của các tông đồ cũng chưa hoàn chỉnh. Niềm tin ấy dường như còn bám rễ vào một quan niệm Thiên Sai ái quốc và duy quốc gia. Vì vậy mà Đức Giêsu “cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Người là Đấng Kitô”, bởi vì một lời tuyên xưng đúng đắn vẫn không đảm bảo cho một đức tin trung thực. Và điều này được chứng minh ngay sau đó, qua phản ứng của Phêrô khi nghe Đức Giêsu loan báo cuộc Thương Khó.
Bài Tin Mừng cho chúng ta xác tín sâu xa về Giáo Hội trần thế mà Chúa Giêsu đã thiết lập, là con đường đưa tới Nước Trời. Bảo rằng mình có thể đi tới với Đức Kitô mà không cần đến Giáo Hội là liều lĩnh, đưa tới nguy cơ lần đường lạc lối. Làm như thế là xây dựng cho mình một Đức Kitô theo tầm mức của mình, là tưởng tượng ra một Đức Chúa cho vừa vặn với lòng dạ mình, là từ khước Đức Giêsu như Người đã tự mạc khải cho chúng ta.
Tuy nhiên, cũng có một số người dị ứng với quyền bính trong Giáo Hội. Chúng ta biết rằng, quyền chìa khóa được ban cho các mục tử là để phục vụ việc đi theo Đức Kitô, là giúp người ta đến gặp Ngài và trở thành môn đệ của Ngài, chứ không phải là quyền ép buộc đoàn chiên đi theo sở thích hoặc ngẫu hứng của mình. Quyền này được trao để phục vụ sự sống, không phải quyền sinh sát trên đoàn chiên. Trong tiếng La tinh, quyền bính là “auctoritas”, do động từ “augere” có nghĩa là “làm cho lớn lên”. Quyền bính trong Giáo Hội là phương tiện để phục vụ cho sự tăng trưởng mà thôi.
Quả thực, Hội Thánh là thực tại nhỏ bé nhất, nghèo hèn nhất, yếu đuối nhất, vì qui tụ quanh một máng cỏ và một cây thập giá. Nhưng Hội Thánh cũng là thực tại cao cả nhất, giàu có nhất, vinh hiển nhất, mạnh mẽ nhất, bởi vì Đấng sinh ra trong máng cỏ cũng là Đấng chịu đóng đinh trên đồi Sọ, và là chính Đấng đã sống lại, và đang hiển trị trên muôn loài muôn vật.
Cuối cùng, bài Tin Mừng đặt ra cho mỗi người chúng ta hai câu hỏi hết sức quan trọng:
– Chúa Giêsu là ai trong cuộc đời chúng ta?
– Và chúng ta là ai dưới cái nhìn của Chúa Giêsu?
Mỗi người phải tự trả lời cho mình. Khi khám phá ra Chúa Kitô, chúng ta cũng sẽ khám phá ra chính bản thân, căn cội và sứ mệnh của đời mình. Nếu ta thực sự muốn kiện toàn đời mình, muốn trở nên trọn vẹn là chính mình, thì không chỉ tuyên xưng Đức Kitô, mà còn tuyên xưng cả lòng yêu mến thẳm sâu, nghĩa là để Chúa chiếm hữu hoàn toàn cuộc đời mình như thánh Phêrô xưa.
Cầu nguyện
Lạy Chúa Giêsu!
Giáo lý của Chúa sẽ không đánh động,
không sâu rộng và lôi cuốn hiệp thông,
nếu như không có những mầu nhiệm.
Khát vọng nơi con người là thế,
chiếm hữu rồi mà lòng vẫn chưa thôi,
đạt tới đích rồi mà trí chẳng đặng yên,
vì ngoài Chúa chẳng có gì là mãn nguyện.
Mầu nhiệm khai mở cho con tầm nhìn mới,
hướng con về “phía bên kia” mọi tri thức,
và mời gọi con vươn lên mãi không ngơi.
Thế nên con thích suy gẫm những mầu nhiệm,
mà Giáo Hội là mầu nhiệm đầu đời,
cho con trở thành con cái Thiên Chúa.
Giáo Hội không “nảy sinh từ dưới lên”
do ý muốn hay toan tính của con người,
nhưng “phát xuất từ trên xuống”
do lòng nhân hậu Chúa xót thương..
Từ ngàn đời, trong chương trình Thiên Chúa,
Giáo Hội đã hiện hữu trong thế giới vĩnh cửu,
và rồi đã hiện diện ngay trong dòng lịch sử,
nhưng vẫn siêu vượt trên mọi tâm trí,
vì vừa nhân loại vừa thần linh.
Chính trong Giáo Hội mà nhân loại hợp nhất,
trong một gia đình duy nhất của Thiên Chúa,
nhưng Giáo Hội vẫn mang thân là lữ khách,
đang tiến bước giữa những cám dỗ và thử thách.
Xin cho cho Giáo Hội luôn biết tự thanh tẩy,
để sống trung tín, trong ngần, và thánh thiện,
như một hiền thê xứng đáng của Chúa mình,
biết nương theo tác động của Thánh Linh,
vươn ra khỏi mình để đến với muôn dân,
luôn dấn thân làm đẹp sáng cuộc trần,
để hoàn thành chính mình trong nguồn cội,
là công trình cứu độ của Ba Ngôi. Amen.
TÔI ĐÃ LÀM GÌ ĐỂ BẢO VỆ GIÁO HỘI?
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Chúa Trao Chìa kHoá Để Bảo Vệ Giáo Hội. Tôi Đã Làm gì?
Ngày 18.08.2011 Đức Giáo hoàng Bênêđictô 16 đến tham dự Đại hội Giới trẻ thế giới ở Madrid, khi tới cổng thành lịch sử Alcala, cửa ngõ của thủ đô Madrid, ông Thị trưởng thành phố Madrid đã đứng chờ chào đón ngài, và trao cho ngài chiếc chìa khóa mở cửa cổng thành Alcala.
Khi trao chìa khoá cho Đức Giáo hoàng là công nhận ngài có toàn quyền đóng và mở cổng thành. Giống như khi khách tới nhà người ta cũng trao cho vị khách yêu quý một chiếc chìa khoá phòng để nói lên quyền ra vào và quyền mở cho ai ra vào căn phòng của mình.
Chiếc chìa khoá còn là biểu tượng cho quyền lực, nó thể hiện tầm quan trọng của ai đó. Ngườinắm giữ chìa khoá có toàn quyền quyết định đón tiếp hay từ chối ai đó . Người cầm chìa khoá còn có bổn phận gìn giữ tài sản của ngôi nhà , thế nên, họ phải khôn ngoan mở để đón tiếp khách hay phải đóng lại để từ chối khách hầu bảo vệ tài sản của mình. Trong tình yêu khi trao cho nhau chìa khoá là dấu chỉ họ hoàn toàn tin tưởng và trao hiến trọn vẹn con tim yêu thương dành cho nhau.
Thánh Phê-rô cũng được Chúa Giê-su trao cho chìa khoá mở cửa Nước Trời. Khi Chúa Giê-su nói cùng Phê-rô: Thầy sẽ trao cho con chìa khoá Nước Trời”, đồng nghĩa với việc trao quyền cho Phê-rô có toàn quyền mở cửa Nước Trời để đón tiếp mọi người từ muôn phương, nhưng cũng phải can đảm đóng lại khi từ chối những thế lực gian tà , chống phá Giáo hội.
Khi nhận chìa khoá Nước trời ta thấy thánh Phê-rô không còn sống cho mình mà là sống cho Thiên Chúa. Ngài đã dành cho Thiên Chúa ưu tiên số một khi ngài nói “phải vâng lời Thiên Chúa hơn là vâng lời người ta”. Ngài đã sống một cuộc đời chứng nhân để giới thiệu Nước Thiên Chúa đến tận cùng thế giới cho dẫu chịu nhiều đau khổ và mất mát nhưng Thiên Chúa đã ân thưởng cho ngài hạnh phúc ngàn thu trong Nước Thiên Chúa.
Mỗi thành phần trong Giáo Hội, thiết tưởng, cũng được tham dự vào việc mở cửa Nước Trời cho chính mình và cho muôn dân bằng đời sống chứng tá của mình, trong gia đình, trong xã hội, khi sống và làm chứng cho tin mừng. Đồng thời cũng biết đóng lại khi cần bảo vệ đức tin cho anh em của mình.
Đó là những người cha người mẹ trong gia đình phải làm sao nắm giữ chìa khoá Nước Trời cho con cái khi chuyên cần mở Kinh Thánh mỗi tối trong giờ kinh gia đình, để hướng dẫn con cái đi vào trong vương quốc của Nước Thiên Chúa.
Đó là những người vợ người chồng khi nắm giữ chìa khoá yêu thương phải quảng đại mở ra để đưa nhau vào vương quốc tình yêu ngập tràn hạnh phúc.
Đó là những linh mục tu sĩ không chỉ là rao giảng về Chúa để mở cửa Nước Trời mà còn can đảm khoá lại những tư tưởng, những việc làm nguy hại đến đời sống đức tin của cộng đồng.
Thực trạng ngày nay với lối sống cổ suý tự do nên chúng ta cần phải can đảm khoá chặt các cánh cửa trước sự tấn công của những trào lưu chống phá giáo hội như bôi nhọ thanh danh các mục tử, nói xấu kẻ bề trên. . . Điều này chúng ta đang thấy quá nhiều trên các trang mạng. Họ vu khống linh mục này, hay nhà dòng kia. Họ xuyên tạc, bóp méo sự thật khiến nhiều người nghi ngại sự thánh thiện nơi Giáo hội. Đây là lúc các mục tử trong Hội thánh không thể im lặng mà phải lên tiếng để bảo vệ thanh danh Giáo hội, và cũng là bảo vệ cho đàn chiên khỏi sói dữ tấn công.
Do đó bổn phận của từng người chúng ta là phải can đảm khóa chặt cánh cửa nhà mình trước mưu mô tiêm nhiễm sự gian tà luôn phủ nhận Thiên Chúa, chống lại Thiên Chúa, chống lại công lý của Chúa, chống lại công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu…
Điều quan trọng là cuộc sống chúng ta cần được xây dựng dựa trên Lời Chúa sẽ giúp chúng ta sống trong tự do của con cái Thiên Chúa. Sự tự do tự tại không bị tính xác thịt thống trị. Sự tự do để chúng ta không bị những đam mê lôi cuốn vào vòng xoáy của tiền, tình, quyền mà xa rời Thiên Chúa.
Xin cho chúng ta biết xây dựng đời mình dựa trên lời Chúa để mở cánh cửa Nước Trời tới cho muôn dân và bảo vệ nước Chúa khỏi những ô uế của thế gian. Amen
Bông hồng nhỏ
“Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16,16).
Đối với ta, Đức Kitô có đang sống hay không? Lặng nghe lời tuyên xưng của Tông đồ Phêrô, lòng ta vọng về câu hỏi ấy. Đức Kitô vẫn đang sống bên ta, ngay trong lòng ta, Người đã và đang dẫn ta bước đi trên hành trình cuộc đời. Có những lúc gặp sóng gió, thuyền đời ta lênh đênh mà chẳng thấy Người ở đâu, nhưng Người vẫn sống, bởi Người là Đấng Hằng Sống, Người là Thiên Chúa của tình yêu (x.1Ga 4,8).
“Này anh Simôn, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời” (Mt 16, 17). Vì yêu thương, Thiên Chúa đã chúc phúc cho những tâm hồn hằng khao khát tìm kiếm Người. Ông Phêrô được kể là người có phúc vì đã lãnh nhận ân huệ cao quý mà Thiên Chúa ban tặng, bởi chính ông cũng đã khao khát được nhận biết Người. Miệt mài bước theo Thầy, là môn đệ thân tín của Thầy, ông cũng sẽ được Thầy Giêsu chọn là Tảng Đá để xây Hội Thánh của Người. Thiên Chúa cũng đã chọn ta làm một viên đá để xây dựng Hội Thánh, một viên đá được Người sử dụng theo ý muốn của Người. Ta có nhận ra ân huệ mà Thiên Chúa ban tặng cho mình không? Tự sức mình, ta chẳng thể nào nhận ra ân huệ cao quý mà Thiên Chúa dành sẵn cho ta, chẳng thể biết được thánh ý Người dành cho ta nếu ta không hết lòng lắng nghe Lời Người dạy dỗ. Ông Phêrô đã lắng nghe người ta bàn tán về thân thế của Thầy mình, ông cũng lắng nghe lời Thầy chất vấn. Phải chăng, sau những ngày tháng theo Thầy làm môn đệ, nhiều lần ông cũng đã tự hỏi: “Đối với tôi, Thầy Giêsu là ai?”. Từng ngày, ta cũng hãy để cho Lời Chúa chất vấn ta như thế.
Chiêm ngắm cuộc đời của vị Giáo hoàng tiên khởi, vị Giáo hoàng xuất thân là một ngư phủ thất học, một Tảng Đá đã được chính Chúa Kitô chọn để xây Hội Thánh, ta sẽ nhận thấy cuộc đời của thánh nhân đã hoàn toàn được Chúa Kitô chiếm đoạt. Từ một ngư phủ thất học, quanh năm suốt tháng bám trụ với thuyền chài, lênh đênh trên biển khơi để mưu sinh, bỗng một ngày lắng nghe tiếng gọi của Thầy Giêsu, anh chàng Simôn đã lập tức theo Thầy (x. Mt 4,18-20). Vốn tính bộc trực nhưng đầy nhiệt thành, đã bao lần ông lên tiếng đáp lại những câu hỏi của Thầy, có lúc ông được Thầy khen là người có phúc (x. Mt 16,17), nhưng cũng có lúc ông bị Thầy mắng là kẻ kém lòng tin (x.Mt 14,31), nặng lời nhất là khi bị Thầy mắng là Xatan (x Mt 16,23); ông cũng từng vui sướng thốt lên: “Chúng con ở đây thật là hay” (x. Mt 17,4) khi được ngắm nhìn Chúa hiển dung; rồi ông vấp ngã đớn đau khi chối Thầy ba lần, ông khóc lóc thảm thiết khi nhận ra tội của mình (x Mt 26, 69-75), rồi cũng ba lần ông mạnh dạn thân thưa với Người: “Thầy biết con yêu mến Thầy” (x. Ga 21,15-19). Sau khi Chúa Giêsu phục sinh, được lãnh nhận Thánh Thần, ông cùng các Tông đồ hân hoan và can đảm rao giảng Tin Mừng phục sinh. Ta hãy để cho Thiên Chúa bước vào tâm hồn ta, để được Người biến đổi. Sống trong tình yêu của Đấng hằng sống, ta sẽ tìm gặp và hưởng nếm nguồn hạnh phúc miên trường.
Lạy Chúa Giêsu là Đấng hằng sống. Xin hãy dùng con theo thánh ý Ngài. Con xin Chúa hãy đến và lên tiếng trong tâm hồn con, cho con được lãnh nhận Lời ân sủng của Chúa, Lời nuôi dưỡng linh hồn con và biến đổi tâm hồn con. Để nhờ đó, con không còn sống cho chính mình nữa nhưng quyết sống theo thánh ý Người. Amen.
Anna Cỏ may
Ngày đầu tiên đến nhận lớp, các bạn học sinh, sinh viên hỏi về thầy cô giáo của nhau là ai. Có bạn chỉ biết tên thầy cô, có bạn quan tâm về vẻ đẹp bên ngoài. Đó chỉ là cái nhìn và sự hiểu biết chút ít của các bạn học sinh, sinh viên về thầy cô trong buổi gặp mặt đầu tiên.
Sau thời gian đi theo Thầy, các môn đệ được nhìn thấy các phép lạ Thầy làm, được nghe những bài giảng hay, được cùng ăn uống với Thầy. Các ông cũng đã từng được nghe người khác nói về Thầy của mình. Họ khen ngợi, thán phục, và bàn tán về thân thế của Thầy.
Đức Giêsu hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” (Mt 16,15). Đứng trước câu hỏi đầy bất ngờ của Thầy, các môn đệ có thể đã rất lúng túng, nhất là phải trả lời cách trực diện với Thầy. Ông Phêrô, một con người nhanh nhẹn đã thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”(Mt 16,16). Ông không tự mình nói ra điều ấy nhưng nhờ Chúa Cha mặc khải và Chúa Thánh Thần tác động nơi ông mà ông có thể nói được. Tuy nhiên, nếu ông không có một tâm hồn khát khao sự thánh thiện, cùng một lòng yêu mến Thầy thì ông không thể nói ra được điều ấy. Ông vẫn là một con người yếu đuối. Có lúc, ông tuyên xưng hay nói những lời đầy yêu mến Thầy, cũng có khi ông có những lời ngăn cản Thầy (x.Mt 16,22), ông cũng sẽ vấp ngã đau đớn khi chối Thầy ba lần trong Cuộc Thương Khó của Thầy (x.Lc 22,54-62). Dầu vậy, Đức Giêsu vẫn trao ban cho ông sứ mạng là người cầm chìa khóa Nước Trời: dưới đất ông cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất ông tháo cởi điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy (x.Mt 16,19). Đức Giêsu thấy rõ con người của ông, một người bộc trực nhưng chân thật và luôn chân thành sám hối đã giao chìa khoá Nước Trời cho ông. Chính thái độ sám hối của ông là một lời xác tín mạnh mẽ dành cho Thầy. Sau khi Thầy về Trời, ông ra đi rao giảng Tin Mừng và làm chứng về lòng thương xót của Thầy mà không ngần ngại gian nan.
Mỗi ngày, từng người trong chúng ta vẫn đang tuyên xưng và xác tín niềm tin vào Thiên Chúa bằng việc tham dự Thánh lễ, chu toàn công việc hằng ngày trong tình bác ái, cùng yêu thương giúp đỡ mọi người. Nhưng đôi khi, chúng ta vẫn có những giây phút khước từ Thiên Chúa, vì chúng ta là con người thật và đầy yếu đuối trước mọi cám dỗ. Dầu vậy, mỗi ngày, Đức Giêsu vẫn yêu thương và mời gọi chúng ta hãy sống lời tuyên xưng của mình qua việc ăn năn sám hối mỗi khi lỡ lầm. Chính khi chúng ta nhận ra lỗi lầm của bản thân, biết đặt niềm tin tưởng vào Chúa và bắt đầu lại từ đầu, đó là sức mạnh cho chúng ta vững tin và nói được Thiên Chúa là ai đối với mình.
Lạy Chúa, đứng trước bối cảnh tranh sáng- tranh tối hiện nay, chúng con thật khó để tuyên xưng Ngài là ai. Chúng con vẫn còn sống trong sự ích kỷ của bản thân. Xin Chúa giúp chúng con đi ra khỏi mình, ra khỏi vỏ bọc an toàn của bản thân để cất bước lên đường, đến chia sẻ tình yêu của Chúa với những ai đang gặp đau khổ. Khi đó, niềm xác tín vào Chúa nơi chúng con không chỉ được diễn tả bằng lời nói nhưng hơn hết bằng hành động yêu thương trong cuộc sống. Amen.
Maria Phạm Anh
Điều tất lẽ dĩ nhiên, khi đứng ngoài một căn phòng đang khóa, muốn bước vào cánh cửa ấy, chúng ta cần phải có chìa khóa để mở. Còn cánh cửa Nước Trời thì sao? Hôm nay, sau khi Thánh Phêrô tuyên xưng Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, ngay sau đó, Người đã đặt ngài làm đá tảng xây Hội Thánh và trao cho ông chìa khóa Nước Trời: “Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời: dưới đất, anh ràng buộc điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc; dưới đất. anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi” (Mt 16, 19). Phải chăng khi trao chìa khóa Nước Trời, Chúa Giêsu trao cho ngài trách nhiệm và quyền bính để chèo lái con thuyền của Giáo hội? Nhưng ở đây, chúng ta đi không tìm hiểu sâu về vấn đề đó mà tập trung vào biểu tượng cánh cửa là Nước Trời. Chúa Giêsu cũng đang trao cho mỗi người chúng ta chìa khóa Nước Trời để chúng ta có thể bước vào cánh cửa Nước Trời. Vậy chìa khóa là gì? Chúng ta giữ lấy và sử dụng như thế nào?
Trong cuốn sách Lâu đài nội tâm, Thánh Têrêsa Avila đã ví, linh hồn chúng ta như những căn phòng, khi vào đến phòng cuối cùng chúng ta sẽ gặp được Đức Lang Quân là Đức Giêsu mà linh hồn hằng khao khát. Nhưng làm sao để mở các căn phòng ấy? Kinh nghiệm của Thánh Phêrô trong bài Tin Mừng hôm nay cho chúng ta lời giải đáp. Khi được Đức Giêsu hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”, ngài đã nhanh nhẹn đáp: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” (x. Mt 16, 15-16). Chính lời tuyên xưng này là chìa khóa để mở ra cánh cửa cuộc đời của ngài, ngài không còn là một người tầm thường nữa, nhưng là “đá tảng” để xây Hội Thánh, dù một lần vấp ngã khi chối Thầy. Chính Đức Giêsu là chìa khóa để mở các căn phòng của linh hồn và dẫn ta qua các cánh cửa để vào Nước Trời. Bởi chúng ta nhờ Người mà được tạo thành, được tồn tại và luôn quy hướng về Người, như lời khẳng định của Thánh Phaolô: “ Muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người” (Rm 11, 36). Vậy chúng ta hãy đến với Người, giữ Người trong linh hồn chúng ta để chúng ta có thể mở được cánh cửa Nước Trời, vì chính Người là chìa khóa.
Nhưng làm sao chúng ta có thể giữ được chìa khóa ấy? Đó là một việc hết sức khó khăn, bởi con người chỉ là một thụ tạo nhỏ bé, còn Người là Đấng Cao Cả! Tất cả là vì tình yêu thương Người dành cho chúng ta, Người đang mong chờ chúng ta đến với Người để được kết hợp với Người, Người vui thích ngự vào tâm hồn chúng ta. Chúng ta hãy chạy đến với Người qua Lời Chúa, qua bí tích Thánh Thể, qua các cử hành Phụng vụ, giờ kinh và cả trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta nữa. Điều quan trọng là chúng ta “chọn Người”, đặt Người lên “trước hết và trên hết” trong cuộc sống của chúng ta: “Anh em có làm gì, nói gì, thì hãy làm hãy nói nhân danh Chúa Giêsu và nhờ Người mà cảm tạ Thiên Chúa Cha” (Cl 3, 17). Khi chúng ta đặt Chúa làm động lực, làm mục đích cho các hành động của chúng ta, cuộc sống của chúng ta sẽ trở thành khác. Chẳng hạn, có một chuyến du lịch miễn phí, đến một nơi chúng ta rất thích, nhưng hôm đó là ngày Chúa nhật, nếu đi chúng ta sẽ mất Thánh lễ, nhưng chúng ta sẽ chọn hủy chuyến du lịch và ở lại để tham dự Thánh lễ. Hay trong công việc buôn bán, khi thành thật, chúng ta sẽ được ít lợi nhuận hơn, nhưng chúng ta vẫn sẽ chọn thành thật. Đó là những chọn lựa rất khó và nhiều khi phải đánh đổi, bị thua thiệt rất nhiều theo con mắt của người đời, nhưng đó là chọn lựa dẫn chúng ta đến bình an. Khi chọn Chúa làm trọng tâm của đời mình, chúng ta không còn đặt nặng những giá trị vật chất, nhưng quan tâm nhiều hơn đến tình yêu, tình người chúng ta dành cho nhau. Chúng ta đến thăm nhau không cần quà cáp mà chỉ cần sự hiện diện, bởi chính Chúa Giêsu sẽ là quà- sự bình an. Như vậy, chúng ta đang mở được cánh cửa Nước Trời rồi!
Lạy Chúa Giêsu, con đã khám phá ra chìa khóa để mở cánh của Nước Trời là chính Chúa. Xin cho con luôn biết để Chúa là trọng tâm, là động lực, là mục đích của tất cả những chọn lựa, những hành động và trong toàn bộ cuộc sống của con. Khi con đã chọn Chúa là tất cả của con thì xin cho con cũng biết “quy về tha nhân”, những người đang sống quanh con với tình bác ái và lòng vị tha. Để từng ngày, con dần tiến hơn và mở được cánh cửa Nước Trời mà vào chung hưởng bên Chúa. Amen.
Maria. Nguyễn Huệ
Khi ngắm nhìn một thế giới sống động, chúng ta thấy rõ sự hiện hữu của muôn loài, muôn vật. Chúng ta thấy rõ và dễ dàng phân biệt được vật thể này với vật thể khác. Chẳng hạn, hoa cúc có những đặc điểm khác với hoa lan, hay chiếc bút bi đầy mực để viết lên những trang giấy trắng. Nhận ra các vật thì dễ còn giữa con người với nhau thật khó, chúng ta chỉ nhận diện qua diện mạo bề ngoài của người ấy, còn bên trong tâm hồn thật khó! Dù thế nào đi nữa thì mỗi sự hiện hữu được Thiên Chúa dựng nên đều rất quan trọng và có liên hệ mật thiết với nhau. Đó là sự hiện hữu của những vật thể đầy giới hạn. Còn sự hiện hữu của Thiên Chúa Toàn Năng còn cao trọng biết chừng nào. Với con người đầy giới hạn, chúng ta khó có thể nhận ra sự hiện diện ấy mà phải nhờ đến sự mặc khải của Thiên Chúa như trong kinh nghiệm của Thánh Phêrô. Khi được Đức Giêsu hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”, ông Phêrô mạnh mẽ tuyên xưng: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. (Mt 16,16)
Sự hiện hữu của Thiên Chúa không nằm trong sự giả định, hay rập theo khuôn mẫu của con người. Nếu chúng ta chỉ nghe người khác nói, chúng ta không thể khẳng định là biết rõ về Người. Dân chúng nói gì về Thầy? “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia” (Mt16,14). Đó là sự nhận định của dân chúng, còn chúng ta, chúng ta đang sống cách thời của Chúa Giêsu hơn 2000 năm. Thật khó để chúng ta trả lời về Người, và khó hơn nữa là trả lời về sự hiện hữu của Thiên Chúa! Chúng ta cần được Thiên Chúa mặc khải về Người qua những lần gặp gỡ thân mật với Người, đó là những lần chúng ta được cảm nghiệm một cách thâm sâu về tình yêu của Người. Hãy thinh lặng và sống chậm lại để cảm nhận, Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện bên chúng ta, nhưng chúng ta có nhận ra sự hiện diện ấy và dám tuyên xưng như Thánh Phêrô: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” hay không? . Người là Đấng hằng sống, là Đấng luôn hiện hữu cùng chúng ta trong mọi nơi, mọi lúc, trong mọi biến cố, mọi thử thách và cả trong những thành công hay thất bại,…
Đó là sự thật! Nhưng dường như chúng ta chưa xác tín vào sự thật ấy khi chúng ta chưa nghĩ đến Người, chưa thực sự để Người chiếm hữu cuộc đời chúng ta. Do vậy, những chọn lựa trong cuộc sống còn quy hướng về chính mình, chưa hướng về Thiên Chúa và tha nhân. Chẳng hạn, trong thực phẩm, chúng ta vẫn thích chọn những cái mang lại cho chúng ta nhiều lợi nhuận, dù biết điều ấy hại đến sức khỏe của người khác. Hay chúng ta đang hướng về thành tích nhiều hơn là những bài học quý giá, những việc ý nghĩa mà chúng ta cần phải nhận ra,… Thật vậy, sống niềm tin Thiên Chúa luôn hiện hữu bên chúng ta, cuộc sống của chúng ta thật khác, đượm tình yêu thương và bác ái. Nhưng với sức con người thật yếu đuối và khó khăn để sống niềm tin ấy trong thế giới hôm nay. Nhưng chúng ta đừng lo, Thánh Phaolô đã an ủi chúng ta: “ơn Thầy đủ cho anh vì sức mạnh của Thầy được biểu lộ trong sự yếu đuối”. Lời Chúa mời gọi chúng ta mỗi ngày xác quyết mạnh mẽ hơn sự hiện hữu của Thiên Chúa. Để nhờ ơn Chúa ban, chúng ta có thêm sức mạnh đáp lại tình yêu cứu độ của Chúa, và trở nên xứng đáng là con cái Chúa.
Lạy Chúa là Đấng hằng sống, luôn luôn ở cùng và nâng đỡ chúng con. Chúa biết chúng con còn rất yếu đuối để tin vào sự hiện diện của Chúa trong cuộc đời chúng con. Xin Chúa thương xót và giúp sức cho chúng con để chúng con luôn biết can đảm tuyên xưng đức tin của mình trong mọi nơi mọi lúc, mọi biến cố cuộc sống này, để chúng con được phụng sự Chúa và làm sáng danh Chúa hơn. Amen.
THẦY SẼ XÂY HỘI THÁNH TRÊN TẢNG ĐÁ NÀY
Lm Trần Bình Trọng
Ðá mang ý nghĩa dồi dào trong Thánh kinh. Ðá tượng trưng cho sự vững chắc và kiên cố. Vì thế Chúa Giêsu bảo các tông đồ phải xây nhà đức tin trên đá, để khi mưa to, bão lớn, gió cuốn, căn nhà vẫn có thể đứng vững. Khi ông Simon theo Chúa làm tông đồ, Chúa đổi tên ông thành Phêrô, có nghĩa là đá. Và Chúa hứa đặt Phêrô làm nền tảng Giáo Hội. Phúc âm hôm nay ghi lại việc Chúa trao chìa khoá nước Trời cho Phêrô: Thầy sẽ trao cho con chìa khoá nước Trời: Dưới đất con ràng buộc điều gì, trên trời cũng sẽ ràng buộc như vậy; dưới đất con tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy (Mt 16:19). Chìa khoá theo nghĩa Thánh kinh là biểu hiệu của trách nhiệm và uy quyền. Người mang chìa khoá có quyền quyết định cho ai vào và ai không được vào như chìa khoá nhà Ðavít được trao cho Engiakim để canh giữ triều đình (Is 22:22). Chìa khoá Chúa trao cho Phêrô tượng trưng cho quyền bính của các vị giáo hoàng.
Ðể giúp đánh giá quyền bính của thánh Phêrô, người ta cần nhìn vào hoàn cảnh mà Chúa trao chìa khoá nước Trời cho ông. Lúc mà thánh Phêrô nhận ra thiên tính của Thầy mình: Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống (Mt 16:16) là chính lúc Chúa trao quyền bính cho Phêrô và cũng là lúc mà Thánh Phêrô qui tụ được các tông đồ đến tụ điểm hiệp nhất. Việc mà thánh Phêrô tuyên xưng đức tin vào Ðấng thiên sai là một việc do ơn Chúa, chứ không phải dựa trên tầm hiểu biết của loài người. Vì thế mà Chúa nói với Phêrô: Này anh Simon, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Ðấng ngự trên trời (Mt 16:17).
Tầm hiểu biết của thánh Phêrô về Thầy mình lúc bấy giờ vẫn còn giới hạn. Do đó khi thánh Phêrô can ngăn Chúa đừng đi Giêrusalem chịu đau khổ, thì bị Chúa quạt cho một trận. Chúa gọi Phêrô là Satan khi ông cản bước của Chúa vì tư tưởng của ông không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người (Mt 16:23). Ðức tin của thánh Phêrô vẫn còn bị khủng hoảng và cần được củng cố sau khi chối Chúa ba lần (Mt 26:69-75).
Ðể sửa soạn cho vai trò lãnh đạo và cai quản, Chúa hỏi xem Phêrô có mến Chúa hơn các tông đồ khác không? Lúc này thánh Phêrô không dám tự hào là mình mến Chúa hơn các tông đồ khác, mà chỉ dám bày tỏ là Chúa biết ông yêu mến Chúa. Lần thứ ba Chúa hỏi xem ông có yêu mến Chúa không (Ga 21:15-19), khiến ông bị nhột, chắc là vì ông liên tưởng đến việc đã chối Chúa ba lần (Ga 13:38; Ga 18:17, 27). Thánh Phêrô hẳn đã có kinh nghiệm, không còn tự hào như xưa nữa, mà chỉ tuyên xưng lòng mến của mình ba lần vào Chúa như để bù lại ba lần đã chối Chúa. Lúc này Chúa trao cho Phêrô sứ mệnh chăm sóc cả chiên con của Chúa (Ga 21:15) và cả chiên mẹ là chiên cừu lớn (c. 16, 17), gồm các anh em tông đồ, nghĩa là chăm sóc toàn thể Giáo hội mà Chúa sẽ thiết lập. Khi tiên đoán việc Phêrô chối Chúa, Chúa cũng tiên đoán ông sẽ trở lại, nên mới căn dặn ông rằng khi trở lại rồi, ông cần củng cố và nâng đỡ tinh thần các tông đồ khác (Lc 22:32). Lời Chúa trong hai trường hợp trên đây ngụ ý vai trò lãnh đạo của thánh Phêrô.
Phêrô được coi là người phát ngôn viên, đại diện cho các tông đồ bất cứ khi nào có cơ hội đến. Chính Phêrô đã nói thay cho các tông đồ trong ngày lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống (Cv 1:15-20; 2:14-16). Phêrô là người đầu tiên chấp nhận người Do thái giáo và cả dân ngoại vào Giáo Hội (Cv 2:37-41; 10:44-48). Chính Phêrô là người đã đề nghị chọn một người làm tông đồ thay thế Giuda (Cv 1:21-26). Và Phêrô là người đã bênh vực các tông đồ khác trước toà án Do thái giáo (Cv 4:8-12; 5:29-33). Cũng chính Phêrô đã triệu tập và chủ toạ công đồng đầu tiên của Giáo Hội ở Giêrusalem (Cv 15:7-11). Ðọc thư thứ nhất của thánh Phêrô, ta thấy thánh nhân viết với vẻ uy quyền của người lãnh đạo. Phêrô viết thư ra lệnh cho các vị đại giáo trưởng và môn đệ trong Giáo Hội ở Tiểu Á. Chính Thánh Phêrô đã thiết lập Giáo Hội ở Rôma. Và bởi vì Thánh Phêrô chọn Rôma như là tông toà, cho nên các vị giáo hoàng kế vị được coi là thủ lãnh của Giáo hội Công giáo.
Chúa Giêsu thiết lập Giáo Hội bằng việc chọn mười hai tông đồ, đặt Phêrô làm Thủ lãnh và ban cho ông quyền bính. Mục đích của việc thiết lập Giáo Hội với việc chọn Phêrô là người Lãnh đạo là để qui tụ người tín hữu trong việc hiệp nhất đức tin và tinh thần hiệp thông huynh đệ (Giáo Hội # 18). Suy đi nghĩ lại ta nghiệm thấy rằng đường lối của Chúa thật là khôn ngoan và thông suốt như thánh Phaolô đã nhận ra (Rm 11:33). Trải qua suốt dòng lịch sử Giáo hội, ta thấy quyền bính giáo hoàng đã là đề tài tranh luận và mâu thuẫn, đưa đến việc chia rẽ và phân tán trong thế giới Kitô giáo. Và lịch sử đã chứng minh rằng khi mà người ta tách rời khỏi Giáo Hội mà Chúa đã thiết lập: công giáo, thánh thiện, duy nhất và tông truyền (Kinh Tin kính) thì họ còn tiếp tục phân rẽ nếu có sự bất đồng ý kiến về vấn đề thần học và luân lý. Do đó ngày nay người ta thấy có cả hàng trăm giáo phái Kitô giáo khác nhau trên thế giới. Có những trường hợp mà người ta tách rời ra khỏi Giáo hội để thành lập những giáo phái riêng là tại những lí do khác nhau như tham vọng cá nhân, phán đoán lệch lạc hoặc bất phục tùng quyền bính của Giáo hội.
Quyền bính Chúa ban trong Giáo Hội là để phục vụ. Chúa có thể trực tiếp hướng dẫn loài người mà không cần qua trung gian loài người. Tuy nhiên Chúa đã muốn loài người cộng tác vào chương trình cứu chuộc của Chúa, nên mới đặt loài người cai quản Giáo Hội. Các vị cai quản Giáo hội cũng vẫn còn mang trong mình những yếu hèn và tội lỗi. Vì thế Giáo hội cũng trải qua những thăng trầm: cũng có những lạm dụng và lầm lẫn do cá nhân trong Giáo hội gây ra. Và bao lâu còn tại thế thì Giáo hội với tính cách lữ hành luôn trên đường tìm kiếm sự thật và tự thanh lọc khỏi những sai lầm và lạm dụng.
Vậy làm sao người tín hữu sống hiệp nhất và hiệp thông với Giáo hội? Người tín hữu cũng cần nhận thức rằng hiệp nhất không có nghĩa là đồng nhất. Nếu trong quá khứ ta hãnh diện về tính cách đồng nhất trong Giáo hội: thánh lễ được cử hành bằng tiếng La tinh khắp nơi với cùng một nghi thức và bối cảnh, thì trong hiện tại ta cũng phải hãnh diện về tính cách đa diện: lễ bằng ngôn ngữ bản xứ, thánh nhạc khác nhau, giáo dân được khuyến khích tham phần vào phụng vụ thánh lễ như thừa tác viên thánh thể, thừa tác viên lời Chúa…
Hình ảnh cụ thể và sống động nhất của Giáo hội là giáo xứ. Xây dựng giáo xứ là xây dựng Giáo hội. Có nhiều cách thế để xây dựng giáo xứ như bằng cách gia nhập giáo xứ, tham gia vào sinh hoạt thờ phượng, giáo dục và công tác từ thiện bác ái của giáo xứ, bằng việc góp công lao, thời giờ và tiền của để giáo xứ có phương tiện làm việc tông đồ và bảo trì cơ sở. Ngoài ra gia đình cũng là hình ảnh của giáo hội nhỏ bé. Gia đình là một đơn vị tôn giáo đầu tiên. Chính trong gia đình mà những giá trị đạo đức được truyền đạt xuống cho con cháu và con cháu học được những việc làm đạo hạnh và những nguyên tắc luân lí. Như vậy xây dựng gia đình và giáo xứ là xây dựng Giáo hội. Và ta có thể cảm thấy vững tâm vào lời Chúa bảo đảm khi Chúa hứa với Phêrô là dù quyền lực tử thần cũng không thắng nổi Giáo hội (Mt 16:18).
Lời nguyện xin cho được ở lại trong Giáo hội:
Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã xuống thế làm người,
thiết lập Giáo hội trên tảng đá thánh Phêrô.
Chúa còn cầu nguyện cho các tông đồ được hiệp nhất.
Xin ban cho các giáo phái Kitô giáo
biết khám phá ra căn nguyên cội rễ của mình
để tìm đường trở về hiêp nhất với Giáo hội
mà chính Chúa đã thiết lập.
Và xin cho con được trở nên dụng cụ hiệp nhất
trong cách cư xử, nói năng và viết lách thế nào
để khỏi gây hoang mang và chia rẽ trong lòng Giáo hội.
Cũng xin cho con được sống chết trong Giáo hội. Amen.
Lm Vũ đình Tường
Từ ngàn xưa, công sở cũng như nhà tư, ổ khoá được dùng để bảo vệ nhà cửa, của cải vật chất. Ổ khoá cũng được chế tạo chắc chắn hơn, tinh sảo hơn và phẩm chất cũng tốt hơn. Ngày nay một số ổ khoá không cần chìa khoá, chúng được thay bằng mật mã. Do kết hợp giữa mẫu tự và số tạo thành mật mã riêng cho cá nhân, nên mật mã có thể thay đổi tuỳ í riêng. Người này chế ra được thì kẻ khác có thể phá huỷ được. Đức Kitô trao cho Phêrô chìa khoá nước trời. Chìa khoá này không ai phá huỷ được và cũng không ai ăn cắp được. Bí mật của mật mã số và chữ ẩn nấp nơi chữ và số. Bí mật của chìa khoá nước trời không cất giữ ở nơi chìa khoá, hay ổ khoá mà nằm sâu trong tim mỗi người, vì thế không ai có thể lấy. Bí mật đó chính là tình yêu cá nhân dành cho Đức Kitô. Người ta thường nhận biết Đức Kitô qua một sứ vụ rao giảng của Ngài. Phêrô là người duy nhất nhận biết toàn thể sứ vụ Đức Kitô khi tuyên xưng, ‘Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống’ Mat 16, 17. Đức Kitô ban cho Phêrô một tên mới, ‘Đá Tảng’. Tên mà Đức Kitô thiết lập Giáo Hội Chúa nơi trần gian. Tên ‘Đá Tảng’ cũng thể hiện tình yêu bền chặt ‘sắt đá’ Phêrô dành cho Đức Kitô. Phêrô là vị Giáo Hoàng tiên khởi coi sóc Giáo Hội Chúa nơi trần gian. Bởi không thế lực thù dịch nào ăn cắp được ‘Chìa Khoá Trường Sinh’ nên các thế lực thù địch quay sang đánh phá Giáo Hội. Đức kitô cũng cho biết Phêrô biết rõ về gốc tích Đức Kitô là do Chúa Cha mặc khải cho. Những ai chia sẻ điều Phêrô tuyên xưng được chia sẻ ‘Chìa Khoá Trường Sinh’. Không phải chia sẻ quyền lãnh đạo, hướng dẫn Giáo Hội mà chính là chia sẻ cuộc sống mới Chúa ban, và nhận ơn lành đặc biệt thành con Thiên Chúa. Điều này thể hiện qua việc thay đổi lối sống. Nhận đời sống mới từ Đức Kitô, học và thực thi giáo huấn của Ngài. Người đó đổi mới trở thành khí cụ tình yêu, hoà bình cho Đức Kitô. Người đó đổi mới sống cho Đức Kitô, chết trong Đức Kitô, và chia sẻ cuộc sống trường sinh Đức Kitô ban. Có kiến thức về Đức Kitô mà không yêu mến Ngài, không tin theo Đức Kitô là những triết gia tôn giáo. Nói về Chúa, giải thích về đạo thuần theo lí trí con người, bởi trong họ thiếu tình yêu Chúa nên không có ‘Chìa Khoá Trường Sinh’, bởi thiếu điều kiện duy nhất cần thiết, đó là tình yêu Chúa. Yêu Chúa là chìa khoá cần thiết để thay đổi lối sống. Ai yêu mến Đức Kitô người đó trở thành con cái Chúa. Yêu Chúa bằng trọn trái tim, trọn tâm hồn. Đức Kitô là đầu Giáo Hội, những kẻ kế vị thánh Phêrô là quản gia Giáo Hội Chúa. Các vị này luôn trung thành với Đầu là Đức Kitô và có trách nhiệm yêu mến các chi thể trong thân thể Giáo Hội. Sau khi về trời, Đức Kitô ban Ngôi Ba, Thánh Thần Thiên Chúa xuống hướng dẫn Giáo Hội. Dấu chỉ của thời đại có chứa điều bí ẩn. Dựa vào hướng dẫn của Thánh thần Chúa qua cầu nguyện, các vị trong Công Đồng đưa ra những hướng dẫn cho Giáo Hội. Từ đó tạo ra nhiều nhóm với í kiến khác nhau. Có nhóm không đồng í với hướng dẫn của Công Đồng nên đưa ra chỉ trích, phê bình, tạo ra nứt rẽ trong Giáo Hội. Số khác không đồng í với cách tổ chức, điều hành của Giáo Hội. Số khác nữa không tin vào quyền Giáo Huấn của Công Đồng và đòi đổi mới hơn nữa. Tất cả những biến chuyển trong lòng Giáo Hội, cũng như thế lực bên ngoài xã hội đều là những cơn sóng to, nhỏ, gió cuốn, bão tố làm cho con thuyền Giáo Hội lay chuyển. Đức Kitô biết trước việc đó nên Ngài nói, Giáo Hội Chúa luôn đứng vững trước các thử thách, trước phong ba, bão táp gây nên. Đừng quên, ‘Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi’ c.18. Giáo Hội đứng vững bởi Giáo Hội tồn tại không phải do con người, thế lực trần gian, nhưng do Sức Mạnh Chúa- Xây trên ‘Đá Tảng’ của Đức Kitô, xây trên tình yêu Ngài. Giáo Hội lệ thuộc vào hướng dẫn của Thánh Thần Chúa, tìm hiểu và giải thích những dấu chỉ của thời đại. Chúng được xem như là những dụ ngôn trong thời đại mới, trong đó ngầm chứa những bí ẩn về nước trời. Ai cũng nhận biết dấu chỉ, ai cũng quan tâm đến dấu chỉ, nhưng giải thích chúng cách mạch lạc không phải là điều ai cũng có thể làm. Công đồng làm việc chung với nhau qua liên lỉ cầu nguyện, và thành tâm nhận định, lựa chọn đưa ra hướng dẫn cho Giáo Hội. Những kết luận của Công Đồng chắc chắn có sự hoạt động của Thánh Thần Chúa. Chúng ta cầu nguyện cho những vị có trách nhiệm lãnh đạo Dân Chúa.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trang Tin mừng hôm nay, Chúa trao cho thánh Phêrô hai sứ vụ quan trọng là “Chìa Khóa” và là “Đá Tảng”: “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời”; “Trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng được”.
1. Chìa Khóa
Bài đọc 1, Thiên Chúa phán về ông Engiakim con của Khinkigiahu: “Chìa khóa nhà Đavit, Ta sẽ đặt lên vai nó. Nó mở ra thì không ai đóng được, nó đóng lại thì không ai mở được” (Is 22, 22). Chúa Giêsu không nói về chìa khóa nhà Đavit mà mà chìa khóa Nước Trời. Sau khi thánh Phêrô tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa Hằng Sống; và với lời tuyên xưng này, ngài đã được Chúa trao “Chìa Khóa Nước Trời”, đó là quyền lãnh đạo Dân Chúa, quyền đóng mở và bảo quản kho tàng thiêng liêng của Hội Thánh, đó chính là Lời Chúa, các Bí tích. Sau này khi Phục Sinh, bên bờ hồ Tibêria, Chúa trao quyền mục tử quản trị “Hãy chăm sóc đàn chiên của Thầy” (Ga 21, 17).
Trong Kinh Thánh, chìa khóa tượng trưng cho quyền cai quản và điều hành, là biểu tượng của sự tin tưởng, uy quyền và trách nhiệm. Chúa Giêsu đã trao chìa khóa cho thánh Phêrô. Chúa tin tưởng thánh Phêrô, trao cho ngài quyền hành và trách nhiệm để hướng dẫn Hội Thánh trên trần gian: “Thầy sẽ trao cho con chìa khóa Nước Trời; sự gì con cầm buộc dưới đất, trên trời cũng cầm buộc; và sự gì con cởi mở dưới đất, trên trời cũng cởi mở”. “Trên trời và dưới đất”, “tháo cởi và cầm buộc”, Chúa Giêsu là dòng dõi Đavit, không phải để kế thừa vương quốc trần gian mà là vương quốc vĩnh cửu của Nước Trời. Quyền “cầm buộc và tháo cởi” là hai hành động diễn tả việc giảng dạy và áp dụng Luật Môsê do các thầy dạy (Rapbi) của Itraen, điều đó cũng có nghĩa là quyền tha tội, quyền đưa ra những phán quyết về giáo lý và những quyết định về kỷ luật trong Hội Thánh.
Trước lễ cung hiến Nhà thờ mới, có nghi thức trao chìa khoá mở cửa Nhà thờ. Đức Giám Mục trao chìa khóa cho Linh Mục Quản Xứ để ngài mở cửa Nhà thờ.Nghi thức này muốn nói lên rằng: việc quản trị Nhà thờ trên toàn Giáo phận là thuộc Đức Giám Mục Giáo Phận, còn Linh Mục Quản Xứ chỉ là người nhận quyền từ Đức Giám Mục, thay mặt Đức Giám Mục trông coi, cũng như cử hành và ban phát các bí tích cho cộng đoàn Dân Chúa tại Nhà thờ này.
Nếu hiểu chìa khóa là biểu tượng nói lên sự tin tưởng, quyền hành và trách nhiệm thì không chỉ riêng thánh Phêrô đã lãnh nhận chìa khóa Chúa trao; mà qua ngài, qua Hội Thánh, hết thảy mọi tín hữu cũng đều được lãnh nhận chìa khóa ấy khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Chìa khóa ấy không gì khác hơn là tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô là Con Thiên Chúa và đồng thời tin tưởng chúng ta cũng là con Thiên Chúa. Quyền làm con Thiên Chúa chính là “chìa khóa Nước Trời” cho mỗi người và cho những người có trách nhiệm liên hệ. Chìa khóa chính là hạt giống đức tin từ ngày lãnh nhận làn nước Bí tích Rửa tội giúp họ mở cửa bước vào kho tàng ân đức của Chúa nơi các Bí tích.
Nói đến chìa khóa là phải nghĩ đến ổ khóa. Ổ khóa là để thực thi chức năng bảo vệ những gì được xem là quý giá mà có thể bị mất vì kẻ trộm, kẻ cướp. Chúa Giêsu nói là trao chìa khóa cho Phêrô, thế thì Người trao cho ông khi nào? Có thể khẳng định là Người đã trao chìa khóa Nước Trời cho Phêrô trong lần hiện ra tại bờ hồ Tibêria khi Người từ cõi chết sống lại. “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy…Hãy chăn dắt chiên của Thầy…”. Nhận lấy chìa khóa là nhận lấy trách vụ bảo vệ. Để có thể chu toàn trách vụ bảo vệ thì trước hết cần phải trân quý cái mình bảo vệ đồng thời nhận rõ các nguy cơ khiến có thể mất nó. Chúa đã trao cho Phêrô chìa khóa để bảo vệ đoàn chiên. Chúa cũng đã trao chìa khóa cho các giám mục để chăm sóc, bảo vệ đặc biệt đoàn chiên trong các Hội Thánh địa phương.
Chúa Giêsu đã trao chìa khóa Nước Trời cho Phêrô, nhưng ngài không cầm chìa khóa bằng sắt thép hay kỹ thuật số, mà chìa khóa ấy chính là bí tích hòa giải. Sách Giáo lý Hội Thánh Công Giáo dạy: Quyền “trói và cởi” là quyền tha thứ các tội lỗi, công bố những phán đoán về giáo lý và đưa ra những quyết định có tính kỷ luật trong Giáo hội (x. số 553).
2. Đá Tảng
Sau khi Phêrô và các môn đệ biết nguồn gốc lời tuyên xưng của Phêrô là do Cha trên trời mạc khải, Chúa Giêsu công bố và thiết lập Hội Thánh, cộng đoàn của Giao Ước Mới: “Thầy báo con biết: con là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Với lời này, Chúa Giêsu chính thức thiết lập Hội Thánh. Chúa xây dựng Hội Thánh của Chúa trên đá tảng Phêrô. Xây trên đá có nghĩa là xây trên một nền tảng vững chắc, vững chắc đến mức độ sức mạnh của hoả ngục cũng không thắng nổi: “trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”. Cuối bài giảng trên núi, Chúa đã nói ví dụ xây nhà “xây nhà trên cát” thì sẽ bị nước cuốn đi, “xây nhà trên đá” thì “mưa sa, nước cuốn hay bão táp ập vào nhà ấy cũng không sụp đỗ”. Bây giờ Chúa đã có được nền đá để xây ngôi nhà là Hội Thánh của Chúa. Việc Cha mạc khải cho Phêrô biết và tuyên xưng Chúa Giêsu là ai, là tín hiệu của Chúa Cha cho Chúa Giêsu thấy Tảng Đá tuyển chọn. Ở cái miền đất “đá nhiều hơn đất” này, núi đá trơ trọi và những tảng đá trơn trượt cao sừng sững, hay hốc đá…là những nơi an toàn. Ngôn sứ Isaia diễn tả sự an toàn của những người theo đường chính trực : “Người như thế sẽ được ở trên núi cao, có đồn trên núi đá làm nơi trú ẩn. Bánh ăn sẽ được luôn cung cấp, nước uống chẳng lo thiếu bao giờ” (Is 33, 16). Các Thánh Vịnh nhiều lần ví Thiên Chúa lá núi đá, là tảng đá. Thậm chí sách Xuất Hành đẩy đến cùng ý nghĩa cứu độ này, khi kể rằng lúc dân Itraen không có nước uống, họ kêu trách ông Môsê, ông Môsê kêu lên Đức Chúa thì Đức Chúa truyền: “Ngươi hãy đi lên phía trước dân, đem theo một số kỳ mục dân Itraen, cầm lấy cây gậy ngươi đã dùng để đập xuống sông Nin, và đi đi. Còn Ta, Ta sẽ đứng ở đàng kia trước mặt mọi người, trên tảng đá núi Khorep. Ngươi sẽ đập vào tảng đá, từ tảng đá nước sẽ chảy ra cho dân uống” (Xh 17, 1-7). Sách Dân số kể chuyện tương tự ở một giai đoạn sau, Thiên Chúa bảo ông Môsê cầm gậy, triệu tập cộng đồng Itraen trước tảng đá rồi “nói với tảng đá” và “từ tảng đá ngươi sẽ làm cho nước chảy ra cho chúng uống”. Nhưng trong cơn tức giận vì sự cứng lòng của dân, ông Môsê đã cầm gậy “đập vào tảng đá hai lần”, “nước trào ra lai láng cho dân và súc vật uống” (Ds 20, 1-11). Nhưng Đức Chúa thịnh nộ với ông Môsê vì đã không tôn vinh Danh Chúa khi trái lệnh: thay vì nói với tảng đá, ông lại đập và đập tới hai lần!
Quyền lực và thù nghịch của Thiên Chúa và loài người từ ban đầu là cái chết do Satan cầm đầu và đưa vào trần gian (x.Kn 1, 13;2,24). Chúa đã thắng cả cái chết, nên ngôi nhà Hội Thánh Chúa xây lên thì quyền lực Tử Thần sẽ không làm gì được. Tất cả những kẻ đã làm tay chân cho tử thần để tìm cách tiêu diệt Hội Thánh của Chúa, từ bên ngoài cũng như từ bên trong Hội Thánh đều đã được tử thần đón về dinh để tưởng thưởng; còn Hội Thánh vẫn sống động và tiếp tục lan rộng đến tận cùng thế giới. “Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian” (Ga 16, 33). Cái đêm đen tối nhất của lịch sử Hội Thánh đã xảy ra rồi: mười hai ông tông đồ Chúa đã chọn, thì ông thủ quỹ Giuđa bán Chúa; tảng đá Phêrô mới chỉ bị một con hầu giữ cổng “rờ gáy” đã chối Chúa nhanh hơn gà gáy, mười ông kia bỏ trốn ngay khi Chúa bị bắt, còn Chúa thì vào âm phủ, ngôi mộ bị niêm phong với lính gác. Đó chính là cái đêm Hội Thánh sinh ra (x.Ga 16, 20-22) (x.Tĩnh tâm với sách Tin Mừng Matthêu, Lm Nguyễn Công Đoan SJ).
Nếu Phêrô có quyền giáo huấn, quyền thánh hoá và quản trị Hội Thánh, thì chỉ nhằm mục đích là phục vụ Dân Chúa. Hội Thánh đã gặp biết bao khó khăn trong dòng lịch sử. Không chỉ những cuộc bách hại đẫm máu, mà còn có những chia rẽ, tranh chấp nội bộ, những sa sút trầm trọng vì chạy theo thế gian. Chúa Giêsu gọi Simon là Phêrô, nghĩa là Đá. Điều này diễn tả sự chia sẻ quyền lực của Thiên Chúa cho người đại diện Chúa nơi trần gian là Phêrô và các Đấng kế vị ngài. Chúng ta tin vào sự vững bền của Hội Thánh vì chính Chúa là Nền Tảng đã đặt ngai tòa Phêrô như Đá vững chắc cho ngôi nhà Hội Thánh. Sức mạnh của Đấng Phục Sinh là cơ sở cho niềm tin và bình an khi chúng ta sống trong Hội Thánh của Chúa.
Chìa Khoá mở lối vào Thiên Quốc Vĩnh Hằng có độ rắn của lòng trung thành, liên lỉ trong cầu nguyện; có độ bền của sự hiền hậu, khiêm nhường; có cấu trúc đẹp của lòng bao dung, tha thứ. Nó không làm bằng kim loại vật chất của trần gian, mà được đúc kết bằng hợp kim của niềm tin tâm linh và tính thánh thiêng. Nó có thể mở được tất cả các cánh cổng của những vấn nạn nghiêm trọng trong cuộc sống, và của mỗi thân phận con người.
Tảng Đá, tên mới này phản ánh sứ mạng Chúa giao cho Phêrô. Trên Táng Đá này, Chúa xây Hội Thánh vững bền. Thánh Phêrô đã trải qua nhiều đau khổ, chịu bách hại và đã đổ máu vì danh Đức Kitô. Thánh Phêrô đã tuyên xưng đức tin: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống” và đã tuyên xưng tình yêu “Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy”. Vì niềm tin yêu vào Chúa Giêsu Kitô, Thánh Phêrô đã chia sẻ sứ mạng của Thầy Chí Thánh và hiến dâng mạng sống cho đoàn chiên. Thánh Phêrô đã sống theo chân lý: ‘Nếu Thiên Chúa ở cùng chúng ta, ai có thể đánh bại chúng ta? ’. Chúa là sức mạnh của thánh nhân, không gì có thể tách ngài ra khỏi lòng mến của Chúa Kitô. Thánh Phêrô xứng đáng để nắm giữ “Chìa Khóa Nước Trời”.
Lời hứa của Chúa Giêsu với Phêrô đã trở thành hiện thực khi nhìn lại lịch sử Hội Thánh hơn hai ngàn năm qua. Phêrô là Đá Tảng nhưng chính Chúa làm cho Đá Tảng vững bền. Phêrô giữ chìa khóa nhưng chính Chúa gìn giữ tòa nhà. Dẫu Hội Thánh trải qua nhiều sóng gió nhưng vẫn luôn luôn đứng vững trên nền tảng của Thánh Phêrô. Vị Giáo hoàng tiên khởi và các đấng kế vị luôn đóng trọn vai trò “Đá Tảng”, luôn chu toàn chức vụ “cầm chìa khóa nước trời” để “trói và cởi”. Nhờ đó, nhân loại đón nhận biết bao ơn lành từ Thiên Chúa qua Hội Thánh.
Tạ ơn Chúa đã lập nên Hội Thánh. Hội Thánh trở thành mẹ của mỗi tín hữu trong đức tin, trong cuộc sống siêu nhiên (x. LG 6.14.15.41.42). Vì thế, bổn phận của chúng ta đối với Hội Thánh là biết ơn, vâng lời và xây dựng nhiệm thể Chúa Kitô “Hãy để Thiên Chúa dùng anh em như những viên đá sống động mà xây nên Ðền thờ thiêng liêng.” (1 Pr 2, 5)
Trầm Thiên Thu
Khoảng năm 1602, họa sĩ Annibale Carracci (1560–1609, Ý) vẽ bức tranh “Domine, quo vadis?” mô tả một cảnh trong ngụy thư Công Vụ Phêrô (Acts of Peter). Annibale Carracci đã sáng lập trường phái hội họa Baroque của Ý, gọi là trường phái Bologna. Bức tranh “Quo Vadis” là một trong các tác phẩm của ông được biết đến nhiều nhất, mô tả Thánh Phêrô đang trên đường trốn khỏi Rôma thì gặp Chúa Giêsu vác Thập Giá. Phêrô hỏi: “Domine, quo vadis?” (Thầy đi đâu vậy?) Chúa trả lời: “Romam vado iterum crossifigi.” (Thầy đến Rôma chịu đóng đinh.) Nghe Thầy nói vậy, Phêrô trở lại Rôma ngay lập tức.
Phêrô là một ngư phủ bình thường, không có gì nổi bật, nhưng lại được Chúa chọn làm trưởng Nhóm Mười Hai và trao cho ông chiếc “chìa khóa uy quyền” để cai quản và hướng dẫn Giáo Hội tại thế. Chức vụ và chức danh nghe có vẻ giống nhau, nhưng có phần khác nhau quan trọng. Chức danh đề cập phẩm tước, còn chức vụ đề cập công việc, trách nhiệm và bổn phận về chức vụ – gọi là chức phận. Như vậy, chức danh không cần có chuyên môn, nhưng chức vụ cần có chuyên môn. Danh từ “chức sắc” thường dùng trong tôn giáo, tức là nói về những người có chức vụ nào đó. Chức (tước) luôn gắn liền với (nhiệm) vụ.
Chúa đã muốn thì không thể trốn tránh. Phêrô trốn không thoát. Giêrêmia trốn không thoát. Giôna trốn không thoát. Tuy nhiên, người có chức vụ mà không làm đúng chức năng thì chỉ là “hữu danh vô thực,” là “bù nhìn,” là hình nộm, như ma-nơ-canh (mannequin, người giả ở các tiệm trang phục). Loại người “ham chức, quên vụ” này chẳng làm nên trò trống gì, đôi khi còn phá bướng, nhưng lại hay lên mặt “ta đây.” Chúa rất ghét loại người này. Chắc chắn có hệ lụy, trốn không thoát.
Trình thuật Mt 16:13-20 [≈ Mc 8:27-30; Lc 9:18-21] cho biết rằng, khi đến vùng kế cận thành Xêdarê Philípphê, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Người ta nói Con Người là ai?” Hỏi để mà hỏi, vì Ngài biết rõ mười mươi rồi. Ngài hỏi là để người khác tự xác tín. Và các ông đều thưa: “Kẻ thì nói là ông Gioan Tẩy Giả, kẻ thì bảo là ông Êlia, có người lại cho là ông Giêrêmia hay một trong các vị ngôn sứ.” Mỗi người mỗi ý, mỗi cách nhìn, nhưng chung quy vẫn coi Ngài là một “người đặc biệt,” một “dị nhân” ngoại hạng.
Rồi Ngài hỏi chính Nhóm Mười Hai: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Simôn Phêrô thưa: “Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.” Chúa Giêsu nói: “Này anh Simôn, con ông Giôna, anh thật là người có phúc, vì không phải phàm nhân mặc khải cho anh điều ấy, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Phêrô, nghĩa là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy, và quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi. Thầy sẽ trao cho anh chìa khoá Nước Trời: dưới đất, anh cầm buộc điều gì, trên trời cũng sẽ cầm buộc như vậy; dưới đất, anh tháo cởi điều gì, trên trời cũng sẽ tháo cởi như vậy.” Ý Chúa quan phòng và tiền định nhiệm mầu, chúng ta không thể hiểu thấu. Nghe ông Phêrô nói vậy, Ngài cấm ngặt các môn đệ không được nói cho ai biết Ngài là Đấng Kitô. Sao vậy? Giờ Ngài chưa đến.
Ngay lúc nhận “chìa khóa” cũng là lúc ngư phủ Phêrô đã trở thành giáo hoàng tiên khởi với quyền tối thượng, Công Đồng Vatican I (từ 08-12-1869 tới 01-07-1870, thời ĐGH Pio IX) đã xác nhận ơn bất khả ngộ của giáo hoàng. Chìa khóa mà Sư Phụ Giêsu trao cho đệ tử Phêrô là Chìa-Khóa-Yêu-Thương-và-Tha-Thứ, Chìa-Khóa-Nước-Trời để mở lối vào cho các hối nhân, chứ không là Chìa-Khóa-Nhà-Tù để giam hãm người khác. Có chức thì có quyền, nhưng cũng đầy bổn phận và trách nhiệm. Quyền cũng đi với Hành, gọi là quyền hành, thế nên đôi khi những người có quyền thì cũng dễ lạm dụng rồi khoái “hành” người khác. Việt ngữ thật thâm thúy!
Nhưng là phàm nhân nên dễ “nghiêng ngả” nếu không tỉnh thức để từ bỏ mình. Thật vậy, con người ảo tưởng nên rất dễ háo danh và hám lợi, vì có “cái danh” thì thường có kèm theo “cái lợi.” Chức danh càng cao, bổng lộc càng nhiều. Điều này xảy ra trong xã hội thì quá rõ ràng, từ cổ chí kim và từ Đông sang Tây đều có, nhưng ngay trong Giáo Hội cũng có những người không thoát khỏi vòng kiềm tỏa của danh lợi đời thường. Người ta cứ chú trọng “cái danh” mà quên “cái phận,” trong khi “cái phận” cần thiết hơn “cái danh.” Thật vậy, Đức Kitô đã động viên người ta phải dám “ngược đời” chứ không theo sự thường: “Nhiệt tâm phục vụ, không mong hưởng thụ.” (x. Mt 20:28) Hai động thái trái ngược mà vẫn xuôi chiều, thuận lý.
Ngày xưa, viên quan Sép-na là tể tướng triều đình (tương tự thủ tướng ngày nay), được người ta coi là “người hùng,” nhưng Đức Chúa tuyên phán thẳng thắn và rõ ràng: “Ta sẽ TỐNG ngươi khỏi chức vụ, Ta sẽ ĐUỔI ngươi khỏi địa vị. Ngày ấy, Ta sẽ gọi tôi tớ Ta là En-gia-kim, con của Khin-ki-gia-hu. Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho nó, cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho nó, quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao vào tay nó, nó sẽ là cha đối với cư dân Giêrusalem và với nhà Giuđa. Chìa khoá nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó. Nó mở ra thì không ai đóng được, nó đóng lại thì không ai mở được. Ta sẽ làm cho nó vững chắc như đinh đóng cột, nó sẽ nên như ngai vinh hiển cho nhà cha nó.” (Is 22:19-23) Chiếc chìa khóa thời Cựu Ước có liên quan chiếc chìa khóa thời Tân Ước: Bí tích Hòa Giải – Bí tích Thương Xót. Thật hạnh phúc, bởi vì chúng ta có thể “tắm gội” nhiều lần để sạch sẽ.
Là Đấng từ bi, nhân hậu, và giàu lòng xót thương, nhưng Thiên Chúa rất thẳng thắn và dứt khoát, không thiên tư tây vị. Ngài đã cho chúng ta thời gian để sửa đổi, nếu không chịu chấn chỉnh, chúng ta sẽ bị Ngài tước hết. Thật vậy, có lần chính Chúa Giêsu đã xác định: “Ai đã có thì được cho thêm, và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy mất.” (Mt 13:12; Mt 25:29; Mc 4:25; Lc 8:18; Lc 19:26) Ngài cũng nói rõ: “Cây nào mà Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời, đã không trồng, thì sẽ bị nhổ đi.” (Mt 15:13) Nghe mà cảm thấy sợ hãi, nhưng không nên hoang mang.
Tuy nhiên, đối với những người biết sám hối và sửa sai, Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ và phục hồi nguyên trạng: “Như đông đoài cách xa nhau ngàn dặm, tội ta đã phạm, Chúa cũng ném thật xa ta.” (Tv 103:12) Thật là trên cả tuyệt vời. Khổng Tử cho biết: “Có lỗi mà không sửa mới thành ra có lỗi.” Đúng như vậy. Lời Chúa có lúc làm cho chúng ta vui mừng, rồi cũng có khi làm chúng ta đau nhói, nhưng tất cả vẫn là hồng ân, Ngài luôn ân cần lắng nghe và thấu hiểu nỗi lòng của mọi người. Thánh Vịnh gia khiêm nhường thân thưa: “Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ, Ngài đã nghe lời miệng con xin. Giữa chư vị thiên thần, xin đàn ca kính Chúa, hướng về đền thánh, con phủ phục tôn thờ. Xin cảm tạ danh Chúa, vì Ngài vẫn thành tín yêu thương, đã đề cao danh thánh và lời hứa của Ngài trên tất cả mọi sự.” (Tv 138:1-2)
Vâng, dù có thế nào thì chúng ta vẫn cần tạ ơn, một động thái rất cần thiết vì nhiều lý do, vừa minh nhiên vừa mặc nhiên: “Ngày con kêu cứu, Chúa đã thương đáp lại, đã gia tăng nghị lực cho tâm hồn. Lạy Chúa, mọi đế vương dưới trần đều cảm tạ khi nghe những lời miệng Ngài phán ra. Họ sẽ ca ngợi đường lối Chúa: Vinh quang Chúa vĩ đại dường bao!” (Tv 138:3-5) Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên, bắt phải nghèo và cho giàu có, hạ xuống thấp, và cũng nhắc lên cao. (1 Sm 2:6-7; Kn 16:13; x. Tv 30:4) Tất cả vì thương xót mà thôi.
Thiên Chúa cao vời khôn ví, làm cho chúng ta từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, và chúng ta chẳng bao giờ hiểu nổi lòng thương xót bao la vô tận của Ngài: “Chúa tuy thật cao cả, nhưng vẫn nhìn đến kẻ thấp hèn; đứa ngạo mạn ngông nghênh, từ xa Ngài đã biết. Việc Chúa làm cho con, Ngài sẽ hoàn tất; lạy Chúa, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Công trình do tay Ngài thực hiện, xin đừng bỏ dở dang.” (Tv 138:6 và 8) Được thương xót nhiều hay ít là điều tùy vào niềm tin của mỗi người: “Ai tin thế nào thì được như vậy.” (Mt 8:13; Mt 9:29)
Vừa đặt vấn đề vừa giải thích, Thánh Phaolô nói: “Sự giàu có, khôn ngoan và thông suốt của Thiên Chúa sâu thẳm dường nào! Quyết định của Người, ai dò cho thấu! Đường lối của Người, ai theo dõi được! Thật vậy, ai đã biết tư tưởng của Chúa? Ai đã làm cố vấn cho Người? Ai đã cho Người trước, để Người phải trả lại sau? Vì muôn vật đều do Người mà có, nhờ Người mà tồn tại và quy hướng về Người. Xin tôn vinh Thiên Chúa đến muôn đời! Amen.” (Rm 11:33-36) Những vấn đề này vẫn luôn nóng bỏng và nhức nhối ở mọi thời đại. Đó cũng là những câu hỏi để mỗi chúng ta tự cân-đo-đong-đếm mức độ tín thác của mình vào Thiên Chúa, một dạng trắc nghiệm tâm linh.
Thiên Chúa là ai mà tôi nên tin? Đó là nghi vấn người ta vẫn luôn đặt ra ở mọi thời đại. Người vô thần cho rằng người hữu thần (cụ thể là Kitô hữu) chỉ ảo tưởng và mơ hồ, nhẹ dạ, nên bị tôn giáo “ru ngủ” và mê hoặc. Người ta luôn muốn dùng các tiến bộ khoa học hoặc bất cứ thứ gì khác để chứng minh rằng “không có Thiên Chúa,” nhưng tất cả đều vô vọng. Đức Tin cần có lý trí, nhưng phải là lý trí trong suốt, dùng lý trí để cố ý chối bỏ và không tin thì hoàn toàn bất trị – ngôn ngữ @ gọi là bó-tay-chấm-com. Người vô thần càng cố tìm cách chối bỏ Thiên Chúa thì chỉ gặp ngõ cụt, những người tin có kiếp luân hồi cũng bế tắc. Thật vậy, một Saolê giỏi giang và bạo tàn đến thế mà rồi cũng đành phải “bó tay” trước Thiên Chúa để trở nên một con người hoàn toàn khác, một Phaolô thuần hóa và nhiệt thành rao giảng Chúa-Giêsu-Kitô-chịu-chết-và-phục-sinh.
Khi ở trong chốn lao tù, ngôn sứ Gioan đã sai đệ tử đến gặp Chúa Giêsu và hỏi xem Ngài có phải là Đấng phải đến hay còn phải đợi ai khác. Ngài không trả lời rõ ràng mà chỉ nói: “Các anh cứ về thuật lại cho ông Gioan những điều mắt thấy tai nghe: Người mù xem thấy, kẻ què được đi, người cùi được sạch, kẻ điếc được nghe, người chết sống lại, kẻ nghèo được nghe Tin Mừng, và phúc thay người nào không vấp ngã vì tôi.” (Mt 11:4-6) Dấu chỉ sự thật mãi mãi bất biến, nếu không nhận ra bởi vì người ta cố ý nhắm mắt, cố chấp.
Khi xét xử Chúa Giêsu, vị thượng tế cũng hỏi Ngài: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26:63; Mc 14:61) Chúa Giêsu cũng không xác định mà lại nói: “Chính ngài vừa nói.” (Mt 26:64) Theo Thánh Luca, Chúa Giêsu nói rõ: “Tôi có nói với các ông, các ông cũng chẳng tin; tôi có hỏi, các ông cũng chẳng trả lời.” (Lc 22:67-68) Có thể chính chúng ta cũng đã hoặc đang có những lúc đặt vấn đề như vậy. Sự hoài nghi rất tinh vi nên không dễ nhận ra.
Khi còn là TGM Jorge Mario Bergoglio, ĐGH Phanxicô sống giản dị, luôn gần gũi người nghèo, có những lần ngài bất ngờ đến với dân nghèo và người lao động, tự cầm khay và đứng xếp hàng chờ đến lượt mình nhận thức ăn nơi quầy thức ăn, giống như mọi người, không nhận quyền ưu tiên nào, và rồi cùng ăn uống với họ. Điều này chứng tỏ lời ngài là thật đối với câu nói của ngài đã phát biểu trước đám đông giới trẻ: “Tôi không muốn làm giáo hoàng.”
Là giáo hoàng, “vua” của Công giáo, nhưng “ông lớn” lại thích làm “ông nhỏ,” tự phục vụ chứ không cần người khác phục vụ, còn nhiều “ông nhỏ xíu” lại muốn biến thành “ông lớn.” Cười ra nước mắt, vì họ chẳng khác gì chú Ếch con mà muốn to bằng con Bò trong truyện ngụ ngôn “La Grenouille Qui Veut Se Faire Aussi Grosse Que Le Bœuf” của Jean de La Fontaine. Thật là khôi hài, không có năng khiếu mà thích diễn, lố bịch quá chừng!
Cổ nhân có câu: “Tam nhân đồng hành tất hữu ngã sư yên.” Trong ba người thì có một người làm thầy. Lẽ tất nhiên. Chức vụ là để phục vụ chứ không để tự tôn hoặc lên mặt với người khác. Mỗi người đều được Thiên Chúa mời gọi hoạt động trong một lĩnh vực nào đó để cộng tác với Ngài, cùng tiếp tục hoàn tất công trình cứu độ của Thiên Chúa, không ai được phép “hưởng nhàn.” Ai cũng “nói hay” về sự phục vụ nhưng chưa chắc muốn phục vụ. Người ta cứ leo lẻo nói rằng “lao động là vinh quang,” nhưng rồi có mấy ai thích vinh quang mà chỉ ưa ngồi rung đùi, chỉ tay năm ngón, và… hốt bạc tỷ. Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi – đời cũng thế mà đạo cũng vậy. Xong. Nhưng chìa khóa và ổ khóa không hề giống nhau.
Nói trước, bước không qua. Tiền nhân nói vậy. Nói được mà không làm được thì chỉ là “lẻo mép.” Viết hay mà làm dở thì cũng vậy, đừng viết lắm mà nắm không xong, đó là dạng “lẻo bút.” Dù “lẻo” dạng nào nào cũng chết chắc. Bởi vì đó là người di truyền “máu” Pharisêu, có AND đạo-đức-giả, đúng như Thiên Chúa đã nói: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.” (Mt 15:8-9) Dạng người như vậy “được” Chúa Giêsu gọi là “mồ mả tô vôi.” (Mt 23:27) Một cái nickname nghe rất “kêu,” nhưng lại làm cho “nhột gáy” lắm!
Đáng sợ thật, bởi vì trước mặt Thiên Chúa, mọi người đều bình đẳng, chỉ hơn thua nhau về nhân đức mà thôi. Mọi người là con cái Chúa thì tất nhiên là anh em với nhau. (x. Mt 23:8) Chắc chắn Ngài không quan tâm cái CHỨC mà chỉ xét đến cái VỤ. Mười nén, năm nén, ba nén, thậm chí là nửa nén cũng không thành vấn đề, không quan trọng vốn mà quan trọng là số lời. Thế thôi! Nhưng ở đời “nhiều chuyện” lắm. Không nói thì bị chê là hèn nhát, a dua, nịnh hót, theo đóm ăn tàn. Dám thẳng thắn nói thật thì bị ghét bỏ, trù dập, xa lánh. Giàu có thì bị ghét, đói rét thì bị khinh, thông minh thì bị triệt, ngu dốt thì bị đì, cỡ gì rồi cũng… chết. Chúa Giêsu cũng chỉ vì thẳng thắn thật thà mà bị người ta ghét và tìm mọi cách để sát hại.
Cứ bình thường, chẳng nịnh cũng chẳng chê ai, chẳng luồn cúi cũng chẳng hống hách với ai. Cứ là chính mình.
ĐGH danh dự Benedict XVI, khi còn đương nhiệm, đã nhận xét: “Kitô giáo không là triết lý mới hoặc luân lý mới. Chúng ta chỉ là Kitô hữu nếu chúng ta gặp gỡ Đức Kitô. Chỉ trong mối quan hệ riêng với Đức Kitô, Đấng phục sinh, chúng ta mới thực sự là Kitô hữu.” Thiên Chúa muốn chúng ta cộng tác với Ngài, mỗi người mỗi việc, tùy khả năng nhận được. Đó là cách Ngài chia sẻ công việc để chúng ta làm mà có thêm công trạng theo danh chính ngôn thuận, chứ Ngài đâu cần gì chúng ta góp một tay, chỉ một lời Ngài tuyên phán là có tất cả.
Mang thân phận phàm nhân, thân tro xác bụi, con người luôn khắc khoải về số phận, luôn thao thức về chính mình, một hạt bụi nhỏ nhoi mà đầy nỗi gian truân, lắm cảnh đọa đày. Cố NS Trịnh Công Sơn đã tự vấn: “Hạt bụi nào hóa kiếp thân tôi?” (Cát Bụi) Nhưng ông không thể giải đáp, nên ông tự nhủ và nhắn nhủ, rồi lại tiếp tục đặt vấn đề: “Đừng tuyệt vọng, tôi ơi đừng tuyệt vọng… Đừng tuyệt vọng, em ơi đừng tuyệt vọng… Tôi là ai mà còn ghi giấu lệ, tôi là ai mà còn trần gian thế? Tôi là ai, là ai, là ai mà yêu quá đời này?” (Tôi Ơi, Đừng Tuyệt Vọng) Cuộc đời như một chu kỳ lẩn quẩn, không có lối thoát. Biết suy tư là còn sinh tồn. Cõi lòng Thánh Augustinô cũng luôn như biển động: “Linh hồn con bồn chồn lo lắng mãi cho tới khi được nghỉ ngơi trong Chúa.” Thánh Vịnh gia kết luận: “Chỉ trong Thiên Chúa mà thôi, hồn tôi mới được nghỉ ngơi yên hàn.” (Tv 62:2) Thật vậy, chỉ có Thiên Chúa mới thỏa mãn chúng ta, vì Ngài là Đầu và là Cuối. (Kh 1:17; Kh 2:8; Kh 22:13)
Liên quan sự phục vụ, ngôn sứ Êlia cảm nhận: “Lòng nhiệt thành đối với Chúa nung nấu con.” (1 V 19:14) Ước gì mỗi chúng ta cũng cảm thấy như vậy. Biết Chúa và biết mình, điều nào cũng khó, nhưng cần phải biết Chúa thì mới có thể biết mình: “Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa, xin cho con biết con.” Đó là tâm nguyện của Thánh Augustinô. Khi biết Chúa rồi, ông cảm thấy hối tiếc và thú nhận: “Con yêu Chúa quá muộn màng.” Biết Chúa và được yêu Chúa thực sự là một đại phúc cho phàm nhân chúng ta.
Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con chân nhận Ngài là Thiên Chúa chí tôn duy nhất, và xin giúp chúng con nhận diện chính mình để không ảo tưởng mà ngu chảnh và ngu kiêu, đồng thời cũng biết sống đúng bổn phận và trách nhiệm hằng ngày. Xin cho mọi người sống trọn Thánh Ý Ngài, nhất là trong thời gian chịu bách hại vì đại dịch corona hiện nay. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 21 TN_A
Lm. Inhaxiô Hồ Thông
Chủ đề của Phụng vụ Lời Chúa Chúa Nhật này có thể được gọi là trao ban quyền lãnh đạo qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.
Is 22: 19-23
Bản văn I-sai-a gợi lên lễ tấn phong “tổng giám quản hoàng cung” của vương quốc Giu-đa, viên quan này sẽ thực hiện quyền lãnh đạo qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.
Rm 11: 33-36
Trong đoạn trích thư của thánh Phao-lô gửi cho các tín hữu Rô-ma, bài thánh thi ca ngợi sự khôn ngoan đầy lòng xót thương của Thiên Chúa kết thúc phần đạo lý của thư gửi tín hữu Rô-ma.
Mt 16: 13-20
Tin Mừng tường thuật Đức Giê-su trao quyền lãnh đạo Giáo Hội của Ngài cho thánh Phê-rô cũng qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.
BÀI ĐỌC I (Is 22: 19-23)
Bài Đọc I hình thành một sự đối chiếu tuyệt vời với Tin Mừng hôm nay. Ngôn sứ I-sai-a gợi lên chính Thiên Chúa đích thân chọn một tổng giám hoàng cung của vương quốc Giu-đa và trao ban cho viên quan này quyền lãnh đạo qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa. Thánh Mát-thêu tường thuật việc Đức Giê-su chọn thánh Tông Đồ Phê-rô làm vị lãnh đạo tương lai của Giáo Hội Ngài, cũng qua dấu chỉ biểu tượng chìa khóa.
Biến cố mà ngôn sứ I-sai-a đề cập đến chắc chắn được định vị vào cuối thế kỷ VII tCn, nghĩa là trước khi những cuộc tấn công cuối cùng của đạo quân Át-sua tàn phá vương quốc Giu-đa.
Chính Thiên Chúa truất quyền ông Sép-na, “tổng giám hoàng cung” vào lúc đó mà trao cho ông En-gia-kim, người Thiên Chúa gọi là “tôi tớ” của Ngài.
“Đức Chúa phán: “Ta sẽ tống ngươi khỏi chức vụ, Ta sẽ đuổi ngươi khỏi địa vị. Ngày ấy Ta sẽ gọi tôi tớ Ta là En-gia-kim, con của Khin-ki-gia-hu”. Câu chuyện này có hai đặc trưng:
– Mô tả lễ tấn phong.
– Hậu cảnh Mê-si-a.
- Mô tả lễ tấn phong
“Áo thụng của ngươi, Ta sẽ lấy mặc cho nó;
cân đai của ngươi, Ta sẽ đem thắt cho y;
quyền bính của ngươi, Ta sẽ trao vào tay nó”
Xem ra vị quyền cao chức trọng này mặc một phẩm phục đặc biệt, cân đai xác định địa vị và quyền hành của ông.
“Nó sẽ là cha đối với cư dân Giê-ru-sa-lem và với nhà Giu-đa”: Chung chung, tước hiệu “cha” dành riêng cho vua, “vị cha của dân tộc”. Chắc chắn, ở đây, muốn đối lập người được tiến cử với vị tiền nhiệm, kẻ đã chỉ nghĩ đến quyền lợi của riêng mình.
“Chìa khóa nhà Đa-vít, Ta sẽ đặt trên vai nó”: Cử chỉ nầy tương tự với việc đặt vương trượng trên vai của vị quân vương vào ngày vua đăng quang. Chìa khóa đặt trên vai là dấu chỉ quyền lãnh đạo của vị quan nầy. Với tư cách là tổng giám hoàng cung, ông có quyền ấn định giờ mở và đóng cửa hoàng cung và giới thiệu những khách viếng thăm. Chính ở đây mà bản văn mặc lấy chiều kích thiên sai.
- Hậu cảnh thiên sai
Phần cuối bài thơ được giải thích trong ánh sáng thiên sai:
“Ta sẽ đặt chìa khóa nhà Đa-vít trên vai nó.
Nó mở ra thì không ai đóng được,
nó đóng lại thì không ai mở được.
Ta sẽ làm cho nó vững chắc như đinh đóng cột,
nó sẽ làm nên như ngai vinh hiển cho nhà cha nó”
Những biểu thức này được hiểu nếu nhân vật được tấn phong là một vị hoàng tử. Nhưng nếu như phải chăng đây thật sự là một vị “hoàng tử của vua Đa-vít”? Một truyền thống đã giải thích đấng giữ “chìa khóa nhà Đa-vít” theo nghĩa Mê-si-a. Quả thật, sách Khải Huyền đã giải thích bản văn theo truyền thống này, khi áp dụng vào Đức Ki-tô: “Đây là lời của Đấng Thánh, Đấng Chân Thật, Đấng giữ chìa khóa vua Đa-vít. Người mở ra thì không ai đóng lại được, Người đóng lại thì không ai mở ra được” (Kh 3: 7). Tiếp theo sách Khải Huyền, các Giáo Phụ đã giải thích lời sấm của ngôn sứ I-sai-a theo viễn cảnh Mê-si-a này.
BÀI ĐỌC II (Rm 11: 33-36)
Bài thánh thi này tôn vinh sự khôn ngoan khôn ví của Thiên Chúa kết thúc phần trình bày đạo lý của thư gửi tín hữu Rô-ma.
- Ơn Cứu Độ cho người Do thái
Sau khi đã bàn về ơn cứu độ của dân ngoại, thánh Phao-lô gợi ra ơn cứu độ của dân Do thái. Những nhận định này đã đem lại cho thánh nhân một sự thanh thản: việc dân Ít-ra-en bất phục tùng lại phục vụ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, kế hoạch dành chỗ cho dân ngoại. Đến phiên mình, dân ngoại sẽ mở ra những con đường đầy lòng xót thương cho dân Ít-ra-en.
- Niềm cảm tạ tri ân
Từ đó, làm thế nào không cất lời ca ngợi niềm hy vọng chan chứa trong niềm hân hoan phấn khởi được chứ? Chính căn cứ trên toàn bộ kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, thánh Phao-lô diễn tả lòng cảm mến tri ân của mình. Bản văn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị âm vang trong tâm trí của thánh nhân:
“Thần khí Đức Chúa, ai đo cho nổi?
Ai làm quân sư chỉ vẽ cho Người?” (Is 40: 13).
Thánh vịnh gia cũng đã ca ngợi sự khôn ngoan của Thiên Chúa:
“Kỳ diệu thay, tri thức siêu phàm,
quá cao vời, con chẳng sao vươn tới!
Lạy Chúa, con thấy tư tưởng Ngài khó hiểu biết bao,
tính chung lại, ôi nhiều vô kể.” (Tv 139: 6, 17).
- Lời chúc tụng
Thánh Phao-lô hoàn tất lời ngợi ca này với một cung giọng mang sắc thái phụng vụ: “Xin tôn vinh Chúa mãi muôn đời. A-men”. Câu “Vinh Tụng Ca” này với những thuật ngữ riêng chắc chắn là tự phát, như nhiều câu tán tụng khác điểm xuyết các thư của thánh nhân. Vinh Tụng Ca này cũng có thể được kinh nguyện nào đó của Giáo Hội tiên khởi gợi hứng cho thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 16: 13-20)
Vì các Biệt phái và Kinh sư quấy nhiễu, vua Hê-rô-đê ngờ vực, và đám đông dân chúng không hiểu, Đức Giê-su hơn bao giờ hết phiêu bạt đây đó. Ngài tìm những nơi yên tĩnh để được sống riêng tư mật thiết với các môn đệ Ngài và chú tâm huấn luyện các ông. Vì thế nhiều lần Ngài vượt qua biên giới Ga-li-lê và ẩn mình một thời gian ở xứ Phê-ni-xi, trong miền Tia và Xi-đôn. Bấy giờ Đức Giê-su đến vùng kế cận thành Xê-da-rê Phi-líp-phê, một trong những địa hạt phía Bắc Pa-lét-tin không thuộc quyền cai trị của tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pa, nhưng tiểu vương Phi-líp-phê, một nhà cai trị mực thước và khôn ngoan. Chính tiểu vương Phi-líp này đã cho xây cất thành phố mà ông đặt tên Xê-da-rê để kính nhớ hoàng đế Âu-gút-tô. Để tránh nhầm lẫn với thành phố lớn Xê-da-rê duyên hải, thành phố này được gọi là “Xê-da-rê Phi-líp-phê”.
Trong lãnh địa này, Đức Giê-su có thể bình yên đi lại. Ngài đồng hành với các môn đệ. Chính trong khung cảnh tươi vui và thanh bình này, Ngài bắt chuyện với các ông. Thánh Mát-thêu nói với chúng ta Đức Giê-su vừa đi vừa chuyện trò thân mật với các ông trong khi thánh Lu-ca lại đặt câu chuyện này vào trong một bối cảnh khác: “Hôm ấy, Đức Giê-su cầu nguyện một mình. Các môn đệ cũng ở đó với Người.” (Lc 9: 18). Trong Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca không bao giờ quên kể ra việc Đức Giê-su cầu nguyện trong những giây phút quan trọng.
- Thăm dò dư luận
Trước khi đề cập chi tiết cuộc chuyện trò giữa Thầy và trò, cần thiết phải nhắc lại hai sự kiện đã xảy ra trước đó ngõ hầu hiểu rõ tầm quan trọng lời tuyên xưng của thánh Phê-rô ở đây. Sự kiện thứ nhất được thánh Gio-an tường thuật: sau bài diễn từ bánh hằng sống, nhiều môn đệ lìa bỏ Ngài vì họ cho rằng “Lời này chướng tai quá! Ai mà nghe nổi?” (Ga 6: 60). Lúc đó, Đức Giê-su buồn rầu quay về nhóm Mười Hai và hỏi họ: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?”. Thánh Phê-rô tuyên xưng: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (Ga 6: 67-69).
Sự kiện thứ hai đặc biệt chỉ dành riêng cho các môn đệ thân tín của Ngài khi Ngài đi trên mặt biển và dẹp yên phong ba bão tố. Trong sự kiện này, thánh Phê-rô là người đầu tiên nhận ra Đức Giê-su và lao mình xuống mặt biển sóng to gió lớn để gặp Ngài. Sau cùng, tất cả đều bái lạy Ngài và tuyên xưng: “Quả thật Ngài là Con Thiên Chúa” (Mt 16: 33).
Liệu đức tin mà các ông tuyên xưng trong những giây phút cảm kích này còn đọng lại những gì trong lòng các môn đệ Ngài? Các môn đệ hiểu gì khi tuyên xưng Ngài là “Con Thiên Chúa”? Đức Giê-su sắp dò xét tâm tư tình cảm của họ. Nhưng trước tiên, Ngài thăm dò tâm tư tình cảm của đám đông dân chúng đối với Ngài, vừa để tạo cơ hội cho các ông trả lời cách chân thật cho câu hỏi thiết yếu của Ngài, đồng thời giúp các môn đệ hiểu biết sâu xa hơn đức tin của họ phải thoát khỏi thế kềm kẹp của dư luận sai lầm như thế nào.
Kẻ thì nói Ngài là ông Gio-an Tẩy Giả. Ý tưởng thật lạ thường, nhưng nhắc nhớ tiểu vương Hê-rô-đê nghi ngờ Đức Giê-su là ông Gio-an Tẩy Giả đã từ cõi chết sống lại (Mt 14: 1-2). Kẻ khác thì bảo Ngài là ông Ê-li-a, bởi vì theo truyền thống, ngôn sứ Ê-li-a phải trở lại để chuẩn bị cuộc giáng lâm của Đấng Mê-si-a. Lòng tin này dựa trên Ml 4: 5: “Đây Ta sai ngôn sứ Ê-li-a đến với các ngươi, trước khi Ngày của Ta đến, ngày vĩ đại và kinh hoàng.” Có người lại cho Ngài là ông Giê-rê-mi-a. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất trong ba thánh ký nhất lãm nêu tên ngôn sứ Giê-rê-mi-a trong câu chuyện này (x. Mt 16: 14; Mc 8: 28: Lc 9: 19). 2Mcb 15: 13-16 chứng thực rằng ngôn sứ Giê-rê-mi-a được xem như đấng che chở dân Chúa chọn và là đấng cầu bầu có hiệu quả nhất như ông Mô-sê xưa (Xh 32: 11).
- Lời tuyên xưng của thánh Phê-rô
“Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Đây mới thật sự là câu hỏi cốt yếu Đức Giê-su nhắm đến trong cuộc trò chuyện thân mật này. Tất cả các môn đệ đều được hỏi, nhân danh các bạn thánh Phê-rô tuyên xưng: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống”. “Đấng Ki-tô” là danh xưng phiên âm từ Hy-ngữ: “Christos” xuất xứ từ nguyên ngữ Híp-ri: “Mesiah” có nghĩa “Đấng Được Xức Dầu”. Trong cụm từ “Con Thiên Chúa hằng sống”, “Thiên Chúa hằng sống” là cách nói tiêu biểu Cựu Ước, nhắc nhở rằng Đức Chúa là Thiên Chúa hằng sống đối nghịch với các ngẫu tượng bất động của dân ngoại. Như vậy, qua lời tuyên xưng này, thánh Phê-rô nhận ra vừa “tước vị Mê-si-a” vừa “tử hệ thần linh” của Đức Giê-su: Ngài không đơn giản chỉ là một con người được Thiên Chúa tuyển chọn, nhưng còn là Đấng Mê-si-a có nguồn gốc thần linh.
Đức Giê-su tán dương đức tin này và ơn linh ứng siêu nhiên mà thánh Phê-rô đón nhận: “Chẳng phải xác thịt hay máu huyết mặc khải cho anh, nhưng là Cha của Thầy, Đấng ngự trên trời”. Kiểu nói: “Xác thịt hay máu huyết” là cách nói thông thường trong văn chương kinh sư để diễn tả bản chất phàm nhân trong thân phận yếu hèn của kiếp người. Như vậy, việc thánh Phê-rô tuyên xưng Đức Giê-su là Đức Ki tô, Con Thiên Chúa hằng sống không phải do thánh nhân khám phá, cũng không phải do loài người chỉ dạy, nhưng do Thiên Chúa mặc khải.
Như vậy, lời tuyên xưng của thánh Phê-rô được Đức Giê-su xác nhận. Ngài công bố trước các môn đệ của Ngài mối liên hệ độc nhất vô nhị của Ngài với Thiên Chúa là Cha Ngài. Vài ngày sau đó, Ngài sẽ dẫn thánh Phê-rô cùng với hai môn đệ khác, tham dự vào biến cố Biến Hình của Ngài căn cứ trên mặc khải ở Xê-da-rê Phi-líp-phê.
- Tấn phong thánh Phêrô
Phần cuối của câu chuyện này, được gọi là việc tấn phong Phê-rô, chỉ được gặp thấy tại Tin Mừng Mát-thêu lại có một tầm quan trọng lớn lao đối với Giáo Hội. Khoa chú giải Công Giáo giải thích cuộc tấn phong của thánh Phê-rô có hiệu lực không chỉ riêng đối với vị lãnh đạo của các Tông Đồ, nhưng còn đối với những người kế vị thánh nhân: “Còn Thầy, Thầy bảo cho anh biết: anh là Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”. Từ A-ram: “Képha” được dịch sang bản văn Hy lạp: “Petros”, nghĩa là “đá tảng”. Ấy vậy, từ A-ram “Képha” cũng như từ Hy-lạp “Petros” không bao giờ được dùng cho tên riêng. Khi nâng danh từ “képha” lên đến tầm mức tên riêng của một người: “Anh là Képha (Petros: phiên âm: Phê-rô), trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy”, một cách nào đó, Đức Giê-su đổi tên ông từ Si-mon sang Phê-rô. Theo truyền thống Do thái, việc đổi tên của một người đồng nghĩa việc đổi mới người ấy và trao quan cho người ấy một sứ mạng mới, như vậy, một con người mới và một vận mệnh mới: Phê-rô sẽ là nền tảng bất khả chuyển lay của Giáo Hội Ngài.
Khi tuyên bố: “Quyền lực tử thần sẽ không thắng nổi”, Đức Giê-su khẳng định tính chất vĩnh cửu của Giáo Hội. Chắc chắn ở đó có một sự ám chỉ đến một niềm tin rất phổ biến, theo đó tảng đá trên đó Đền Thờ Giê-ru-sa-lem được xây dựng sẽ bịt kín lối vào cõi Âm Ty.
“Thầy sẽ trao cho anh chìa khóa Nước Trời”: Hình ảnh này chúng ta đã gặp thấy trong bản văn của I-sai-a (Bài Đọc I): trao chìa khóa cho ai là trao phó cho người ấy quyền lãnh đạo. Trong bản văn của I-sai-a, chìa khóa được trao cho vị tổng quản hoàng gia, ông có nhiệm vụ coi sóc và điều hành dinh thự hoàng gia. Cũng vậy, chìa khóa được trao cho thánh Phê-rô, thánh nhân có nhiệm vụ coi sóc và điều hành Giáo Hội của Đức Kitô.
“Dưới đất, anh ngăn cấm điều gì, trên trời cũng ngăn cấm như vậy; dưới đất, anh cho phép điều gì, trên trời cũng cho phép như vậy”: “Ngăn cấm” và “cho phép” được dịch theo sát từ là “buộc” và “tháo”. Trong Do thái giáo, các kinh sư thường sử dụng cặp từ đối lập: “buộc” và “tháo” khi áp dụng chúng vào những quyết định kỷ cương cũng như lãnh vực đạo lý, vì thế: “buộc” nghĩa là “bắt phải giữ” hay “tháo” nghĩa là “cho phép” hay “chuẩn miễn”. Giáo Hội cũng sử dụng theo cùng một cách như vậy, nhưng thêm vào đây một quy chiếu đặc thù hơn: tha thứ tội lỗi.
- Ba truyền thống Tin Mừng về quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô
Ba bản văn Tin Mừng thiết lập quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô dựa trên lòng tin, niềm hy vọng và lòng mến của thánh Phê-rô:
1- Bản văn của thánh Mát-thêu mà chúng ta vừa mới đọc nhấn mạnh lòng tin, trong đó, Đức Giê-su thiết lập quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô: “Anh là Đá, trên đá này Thầy sẽ xây Giáo Hội của Thầy…”căn cứ trên lời tuyên xưng đức tin của thánh nhân: “Thầy là Đấng Ki-tô, Con Thiên Chúa hằng sống” (Mt 16: 15).
2- Bản văn của thánh Lu-ca nêu bật niềm hy vọng, trong đó Đức Giê-su thiết lập quyền lãnh đạo của thánh Phê-rô trước khi bước vào con đường thương khó, khi căn dặn với chỉ một mình thánh nhân cách long trọng: “Si-môn, Si-môn ơi, kìa Xa-tan đã xin được sàng anh em như người ta sàng gạo. Nhưng Thầy đã cầu nguyện cho anh để anh khỏi mất lòng tin. Phần anh, một khi đã trở lại, hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22: 31-32). Qua lời này, Đức Giê-su nhắc nhở thánh nhân không bao giờ được mất đi niềm hy vọng ở nơi mình, nhưng còn phải là động lực khơi lên niềm hy vọng của anh em mình.
3- Bản văn của thánh Gioan thắp sáng lòng mến, trong đó Đức Giê-su Phục Sinh thiết lập quyền lãnh đạo của Phê-rô trên toàn thể Giáo Hội của Ngài: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy” (Ga 21: 15, 16, 17) dựa trên ba lần lời cam kết tràn đầy lòng mến của thánh Phê-rô đối với Ngài: “Thầy biết con yêu mến Thầy” (Ga 21: 15-17).
Cả ba truyền thống: Đức tin, đức cậy và đức mến, bổ túc cho nhau hội đủ ba đức tính của nhà lãnh đạo Giáo Hội. Đó cũng là nền tảng vững chắc của toàn thể Giáo Hội Đức Giê-su Ki-tô mà không thế lực trần thế nào có thể làm lay chuyển được.