CHÚA NHẬT 26 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Ed. 18, 25-28; Pl. 2, 1-11; Mt. 21, 28-32
———————
1. Tình yêu được chứng minh bằng việc làm (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Thật lòng thật tình (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
3. Chữ hiếu nay còn không? (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
4. Vâng và không (Lm. Thái Nguyên)
5. Từ vâng lời lề luật đến tin vào Đức Giêsu (Jorathe Nắng Tím)
6. Để không thất hứa (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)
7. Lời nói có hơn việc làm? (Anna Cỏ May, Học viện MTG.Thủ Đức)
8. Chọn lựa (Thiên San, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
9. Tiếng nói trong ta (Maria Nguyễn Huệ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
10. Việc làm quan trọng hơn lời nói (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
11. Hồi tâm (Lm. Vũ Đình Tường)
12. Hai phong cách (Trầm Thiên Thu)
13. Sám hối và tin – Điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa (Lm. Đan Vinh)
14. Thi hành Thánh ý Chúa bằng việc làm (Lm. Trần Bình Trọng)
15. Nói và làm (Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
16. Làm ngay hôm nay (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)
17. Ngôn hành bất nhất (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
18. Nhìn với nhãn quan của Chúa (Lm. Xuân Hy Vọng)
TÌNH YÊU ĐƯỢC CHỨNG MINH BẰNG VIỆC LÀM
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Trong cuộc sống cá nhân của mỗi chúng ta, lời nói và việc làm thường có những khoảng cách xa vời, thậm chí có lúc hoàn toàn trái ngược nhau. Những bài diễn thuyết hùng hồn với những mỹ tự bóng bảy nhiều khi chỉ là đồ trang trí cho những tư tưởng rỗng tuếch, nhất là với thời đại bùng nổ thông tin như hiện nay. Với công nghệ quảng cáo tiếp thị, cái gì cũng nhất thế giới, đồ gì cũng là chất lượng hàng đầu…suy cho cùng, chỉ là sự dối trá. Để chứng minh lời nói của một người có thật hay không, người ta phải kiểm chứng việc làm của người đó. Thiếu việc làm, tình yêu chỉ là chót lưỡi đầu môi và giả tạo.
Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay nói đến một người cha và hai người con. Người cha sai hai con đi làm vườn nho. Hình ảnh vườn nho một lần nữa lại được Đức Giêsu dùng để so sánh với cuộc đời. Chúng ta dễ nhận ra, nơi hình ảnh người cha này là chính Thiên Chúa. Người cha này có hai người con. Một người, khi được cha trao việc thì chối từ, nhưng sau hối hận; người thứ hai mau mắn nhận lời, rồi lại không làm. Kết luận Chúa Giêsu đưa ra là: việc làm và đời sống của một người là tiêu chuẩn lượng giá về nhân cách của người ấy chứ không phải lời nói. Người con thứ nhất tuy từ chối lời đề nghị của cha mình, những đã sớm hối hận và đã đi làm vườn nho cho cha. Người con này được kể là người con hiếu thảo và được cha yêu mến. Trái lại, người con thứ hai khi được trao việc thì nhanh nhảu nhận lời, nhưng rốt cuộc lại không làm gì. Đây là người con chỉ vâng lời và hiếu thảo bằng môi mép, còn trong thực tế thì lười biếng và dối trá.
Hai người con tượng trưng cho hai lối sống, hai trào lưu, hai quan niệm và cũng là hai cách thực hành đời sống Đức Tin của chúng ta. Có thể hai nhân vật ấy đồng thời hiện hữu trong chính con người của mỗi chúng ta, khi chúng ta bị cám dỗ sống giả hình hoặc bất tuân. Thiên Chúa là Cha vẫn luôn mời gọi chúng ta làm điều thiện. Trước lời mời gọi ấy, có những người “miệng nói hay, mà tay không làm”. Trái lại, có những người khước từ rồi sau đó nhận ra lẽ phải và gắng công thực hiện ý Chúa.
Trong bối cảnh xã hội hôm nay, cách thức thực hành Đạo bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tại nhiều nơi và đối với nhiều người, đời sống Đức tin chỉ dừng lại ở những nghi lễ bề ngoài mà ít để ý đến chiều sâu và đời sống nội tâm. Theo lẽ thường tình, một khi hình thức tăng thì nội dung giảm. Khi người ta quá chú trọng đến bề ngoài thì dễ quên bề trong. Tại nhiều nơi, lời kêu gọi học hỏi giáo lý để giúp sống Đạo bị bỏ ngoài tai, thậm chí giáo dân còn “tìm cách bỏ trốn” mỗi khi đến giờ học giáo lý. Hậu quả của việc không học giáo lý là một Đức tin mờ nhạt, một lối giữ đạo nửa vời. Nhiều bạn trẻ đã mất Đức tin khi tiếp cận với nền văn minh và lối sống đô thị.
Lời Chúa hôm nay cũng dạy chúng ta cần thận trọng khi nhận định về tư cách của một người. Chắc hẳn những người có mặt lúc Chúa Giêsu tuyên bố những lời này cảm thấy “sốc”: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Lời tuyên bố của Chúa đảo ngược bậc thang giá trị mà người Do Thái thường dựa vào để nhận định một con người. Thì ra, những người mũ cao áo dài chưa chắc đã là những người thánh thiện. Những người biệt phái và luật sĩ dù khôn ngoan chưa hẳn đã là những người ngay chính. Để nhận định tư cách của họ, còn phải xem đời sống hằng ngày của họ ra sao, họ có thực hành đức công bình mà họ vẫn rao giảng hay không, đó mới là điều quan trọng. Một người có quá khứ tội lỗi, nhưng thành tâm thiện chí ăn năn hối cải, thì họ được Chúa tha thứ. Trong cuộc sống, vì có một quá khứ nghiện ngập, tù đầy khi muốn hoàn lương vẫn gặp phải những thành kiến của những người xung quanh, để rồi những người muốn làm một con người bình thường mà cũng không được. Ngôn sứ Edêkien đã truyền lại lời của Chúa: “Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu thoát mạng sống mình!”. Vâng, trong cuộc đời, chúng ta còn khắt khe hơn Thiên Chúa trong việc xét đoán anh chị em mình. Những người thu thuế và những cô gái điếm được vào Nước Trời, vì họ đã để cho Lời Chúa thấm nhập và thay đổi cuộc đời tội lỗi của họ. Họ đã can đảm đoạn tuyệt với quá khứ xấu xa, để mặc lấy Đức Giêsu phục sinh, trở nên con người mới, thánh thiện tinh tuyền. Như thế, đối với Chúa, không thể vin vào một quá khứ xa xưa – dù tốt lành – để biện minh cho những lỗi lầm mình đang phạm. Thiên Chúa công minh vô cùng trong xét xử. Ngài vừa công bằng vừa giàu lòng thương xót.
“Hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, cùng một ý hướng như nhau. Đừng làm chỉ vì ganh tỵ hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình”. Đó là lời khuyên của Thánh Phaolô gửi tới cộng đoàn tín hữu Philiphê. Khi nhấn mạnh đến đức khiêm nhường, vị Tông đồ dân ngoại trình bày Đức Giêsu như mẫu mực và lý tưởng của mọi Kitô hữu: Người là Thiên Chúa đã tự huỷ, mặc lấy thân nô lệ, sống như người trần thế vì yêu thương chúng ta (Bài đọc II). Những ai tiến bước theo Chúa Giêsu sẽ đẹp lòng Thiên Chúa Cha
Hãy bớt những lời nói và hãy gia tăng việc làm. Hãy nói ít và nghe nhiều. Hãy học sống thinh lặng để cảm nhận sự hiện diện của Chúa và những điều kỳ diệu Chúa làm quanh ta. Những điều kỳ diệu ấy, ta chỉ có thể cảm nhận bằng Đức tin và tình mến Chúa yêu người.
Lm. Jos DĐH.
Nói lộn làm sai, quên trước quên sau, đâu phải chỉ xảy ra nơi các cụ cao niên, chắc chắn tuổi tý, tuổi hợi, minh mẫn thế nào, cũng khó tránh khỏi thiếu sót, sai lầm, nếu gia đình, xã hội, không cảm thông, ở đời này, tìm đâu ra người hạnh phúc ? Biết sai để sửa, có vụng dại mới thấy cần phải rút kinh nghiệm, có thực lòng quyết tâm sống nghiêm túc, không hứa cuội, bình an và tình yêu thật mới không dừng lại ở giấc mơ. Đấng bậc khôn ngoan không thể vô tình mà nói: có thật trong lòng mới quí, nếu giả dối trong tim thì quả là đáng sợ. Cuộc sống trớ trêu, khi không đạt được hạnh phúc như ý, người ta dễ khùng dễ điên bất cứ lúc nào: không được ăn thì đạp đổ, hoặc giận cá chém thớt !
Để cho thấy trò giỏi con ngoan là ai, mỗi người phải chứng minh được thế nào là năng lực, là vâng lời trọng hơn của lễ. Để tình yêu sống động, có tính thuyết phục, giữa việc làm và lời nói của ta không thể dừng lại trên đầu môi trót lưỡi. Câu truyện 2 người con mà Đức Giêsu nói đến hôm nay, phản ánh nỗi trống vắng giữa tình cha con: từ chối rồi lại vâng, gật đầu rồi để đó, rồi lại quên ! Trong tình yêu, 2 từ vâng, dạ, không thể thiếu, trong hành động, lời hứa không thể thay cho việc làm. Sống vu vơ để cha mẹ cười hay khóc, không khó, làm cho cha mẹ hạnh phúc mới là khó, tương tự như trong chuyện tình: mê say một người thì dễ, yêu người đó thật lòng mới khó.
Thực ra thì thật lòng, thật tình, cũng là cách diễn tả hạnh phúc thật mỗi người đang tìm kiếm, mong chờ, khi đã nỗ lực cậy trông, đã gắn bó hết sức với những điều kiện ta đang có. Sống thật lòng, thật tình, nhất định sẽ xoá được những nghi ngờ không đáng xảy ra mà thế gian hay nói tới: nỗi khổ của người vợ là có chồng lười biếng, nỗi khổ của người chồng là có vợ đua đòi. Kinh nghiệm trường đời cho thấy: người chăm chỉ là người có phong cách sống giản dị, luôn nhiệt tâm nhiệt với việc được giao, người có niềm tin vào Đấng họ tin thờ, họ sẽ cảm nhận rõ hơn về sức mạnh và tinh thần lạc quan phục vụ. Người cha sẽ vui biết bao, khi 2 con trai của ông thật lòng, thật tình với việc được giao, gia đình sẽ hạnh phúc, tương quan xã hội sẽ phồn vinh, khi không có cảnh nói trước quên sau, mà mỗi người sẽ biết sống có trách nhiệm.
Người cha thật lòng thật tình với con cháu, đâu phải là điều khó hiểu, người con có nghe, có nhận ra, đi làm, đi lao động, là được chung tay xây dựng một gia đình hạnh phúc có nền tảng, phận làm con phải ý thức được điều đó. Người con thứ nhất, thưa không rồi lại có, người con thứ hai, vâng dạ rồi quên, rồi không làm ! Cơ hội để sửa sai, điều kiện để nhận biết tình yêu thương của cha, 2 người con, và tất cả những ai đang sống vô tâm, vô tình, đều có thể suy xét trở về với tình thương cha mẹ, với Thiên Chúa Đấng ta tin thờ. Việc tin Chúa, sống đạo, sống đức tin hôm nay, đâu còn ai nghĩ là để lấy tiếng khen, sợ cha mẹ buồn, sợ cha xứ và giáo hội không vui, vì vậy, ý thức sống thật với lòng mình, sống thật với lời nói việc làm, quả là cần thiết.
Không cần phải có đầu óc “bác học”, người bình thường thôi cũng đủ hiểu: miệng nói hay mà tay không làm, gật đầu thật nhiều mà tay không lay thử, thì có khác gì nước đổ đầu vịt ? Hứa cho nhiều rồi lại quên, biết nói cao siêu thâm thuý, biết cả tâm tính xấu xa của mình, thế mà không quyết tâm sửa, cuộc đời sẽ ra sao, gia đình, xã hội, rồi sẽ đi về đâu ? Đầu to mà óc như quả nho, hay nhỏ mà có võ, vẫn là những từ ngữ người trẻ hôm nay thích dùng, dù lời không tuỳ mị, cũng có ý nhắc nhớ chăm học, chăm làm, sống thật tình, sống thật lòng, để không ai bị tiếng là đạo hình thức. Nói mà không làm, nói nhiều làm ít, xưa hay nay, xã hội vẫn hiểu đó là căn bệnh: nói một đàng, làm một nẻo, chỉ là phô trương, cưa bom, đốt pháo, … nếu tự mỗi người không quyết tâm sửa, mức độ lây lan sẽ nguy hiểm không phải chỉ nơi gia đình.
Đồng ý rằng: khéo mồm miệng đỡ chân tay, hay làm trời cho, hay lo khó ngủ, tuy nhiên, khôn khéo là cách thế gian diễn tả, sự thật, sống thật, lúc nào, cũng phải được quan tâm, nếu theo Chúa. Thật đáng tiếc, nếu có tật mà không biết, có lỗi mà không sửa, được nhắc bảo vấn đề thiếu sót, mà cố chấp, tuỳ theo mức độ, nguy cơ mất mạng không phải là không xảy ra. Có vâng dạ đấng bậc sinh thành, có kiểm soát được lời ăn tiếng nói, mới hy vọng nhận biết con người thật của mình. Người môn đệ, người tín hữu theo Đức Kitô trọn vẹn nhất, trước hết phải là người không mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm, biết thưa vâng, cũng phải biết thực hành ý Chúa. Chỉ dạy con cháu gọi dạ bảo vâng là cần thiết trong các tương quan, thì cũng phải lưu ý ta nên sống thật lòng, thật tình, như là một phần quan trọng của gương sáng cho thế gian, dù là bề trên bề dưới đều phải tuân thủ. Amen.
Lm.Jos Tạ duy Tuyền
Ngày 07/09/2020 trên mạng phát tán đoạn clip bạo hành. Trớ trêu thay là con bạo hành mẹ tại Long An. Người con bất hiếu này lấy cây chổi đánh liên tiếp vào mẹ, đổ rác lên đầu bà cụ và kêu la lớn tiếng: “Mày đừng hành hạ tao. Ăn đi, mày ăn đi, hả họng ăn vô, biến đi, đừng thấy mặt tao”…
Dân mạng xót xa khi hình ảnh cụ bà trong clip chỉ biết ngồi co ro trên giường chịu trận, rồi khóc. Thấy cụ khóc, người phụ nữ xô té ngã xuống giường và chửi lớn: “Mày đừng hành hạ tao, nghe chưa, nghe chưa”…
Đoạn clip được đứa con gái thay vì can ngăn mẹ đừng hành hạ bà, nó lại quay clip và lưu giữ từ 11/2019, để rồi trong ngày ngoại mất ngày 02/09 đem cung cấp clip cho anh họ đăng và từ đó lan tràn trên facebook.
Thật bất hạnh.
Ba thế hệ ruột thịt cùng chung sống dưới một mái nhà, ai cũng tự vận vào mình một nỗi bất hạnh riêng.
Câu chuyện đau lòng trên như muốn gióng lên một hồi chuông báo động về lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ mình. Phải chăng ngày hôm nay, chữ hiếu đang dần bị khô héo? Phải chăng câu ca dao “con cãi cha mẹ trăm đường con hư” đã và đang diễn ra ngày càng nhiều? Phải chăng muốn con có hiếu phải có tiền thì nó mới nhận được sự cưng phụng của chúng?
Có lẽ, nỗi đau lớn nhất của cha mẹ là con cái không vâng lời cha mẹ. Nỗi bất hạnh tột cùng nhất của cha mẹ là con cái bất hiếu và phản loạn đối với công ơn dưỡng dục sinh thành. Kinh nghiệm của cha ông ta vẫn thường nói: “Uốn cây uốn thuở còn non – Dạy con dạy thuở còn thơ”. Con cái cần được dạy cho biết sống vâng lời ngay từ thuở nhỏ, lớn lên mới có hy vọng biết sống theo lời hay lẽ phải. Có những bậc cha mẹ nuông chiều con cái đến độ thay vì dẫn dắt con cái theo ý mình, họ lại luôn chiều theo ý con. Có những bậc cha mẹ quá dễ dãi, thường hay xí xóa những thói hư tật xấu của con, tưởng rằng lớn lên nó tự biết sửa đổi. Có những bậc cha mẹ giáo dục con cái nhưng “ngôn hành bất nhất”, khiến con cái học đòi tính “nói một đàng làm một lẻo”, thất hứa, thất tín với gia đình và với xã hội.
Nỗi lòng của cha mẹ đau khổ vì con cái thế nào, thì nỗi lòng của Thiên Chúa đối với nhân loại cũng vậy. Thiên Chúa sẽ không vui khi thấy con người chối bỏ tình yêu của Thiên Chúa. Thiên Chúa sẽ rất buồn khi con người sống buông mình trong những đam mê thấp hèn mà đánh mất nhân tính của con người. Thiên Chúa sẽ rất đau khổ khi thấy con người bỏ Chúa để tôn thờ thụ tạo thấp hèn hơn con người.
Hôm nay Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn hai người con. Cả hai đều không phải là người con ngoan thực sự. Người con thứ nhất tuy lúc đầu cãi lời cha mẹ nhưng sau hối hận lại đi làm ngay. Người con thứ hai thuộc diện “ba phải”, dạ vâng rồi lại không làm.
Người con đầu là hình ảnh của người ngoại đạo “nhưng tin có Chúa ở trên cao”. Họ làm điều thiện và tránh điều ác vì tin rằng “Ông Trời có mắt”.
Người con đầu cũng là hình ảnh người tội lỗi được ơn trở về cùng Chúa. Họ sám hối và làm lại cuộc đời của mình bằng việc sống và thực thi giới răn của Chúa.
Người con thứ hai có thể là hình ảnh của chính chúng ta. Tuy môi miệng vẫn xưng mình là con cái Thiên Chúa nhưng lại không sống theo giáo huấn của Chúa. Vẫn ngoại tình, trộm cắp, cờ bạc, rượu chè. Sống thiếu công bình và bác ái trong lời nói lẫn hành động. Có những người nói rất hay nhưng lại không thực hiện những điều mình nói. Có những người bề ngoài rất đạo đức nhưng trong lòng lại chất chứa đầy tính gian tham, lừa đảo. . .
Đã có một lần Chúa Giêsu từng nói: “không phải những ai thưa lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời đâu, mà chỉ có những ai biết lắng nghe và thực thi lời Chúa mới xứng đáng hưởng Nước Trời.
Xin Chúa giúp chúng ta biết “ngôn hành như nhất” để lời nói và việc làm của chúng ta luôn đẹp lòng Chúa và đẹp lòng mọi người. Amen
Lm. Thái Nguyên
Suy niệm
Cuộc sống vàng thau lẫn lộn, rất khó mà phân định đúng đắn nếu dựa vào những tiêu chuẩn và hình thức bên ngoài. Thấy vậy mà không phải vậy. Để phân biệt hai hạng người tốt – xấu; thật – giả, Đức Giêsu đưa ra dụ ngôn: “Hai người con”: Người cha sai hai đứa con đi làm vườn nho. Người con thứ nhất từ chối nhưng sau đó nó hối hận nên lại đi. Người con thứ hai nhận lời ngay nhưng rồi lại không đi.
Ðứa con thứ nhất tượng trưng cho những người thu thuế và tội lỗi, những người xa lạc và ngoại giáo, những người bị đặt bên lề xã hội và tôn giáo. Ðời sống của họ không đẹp đẽ gì mà còn gây nên một thực trạng đáng buồn cho đời sống xã hội. Thế nhưng chính tội lỗi đã làm cho họ ý thức để sống khiêm tốn, và thực tâm hoán cải trước lời mời gọi sám hối của Gioan. Họ là những người thiếu nhiều hiểu biết về đời sống tôn giáo, nhưng điều Chúa cần nhất là sự mềm mại của con tim để được biến đổi. Rốt cuộc, họ lại là những người tin vào Ðức Giêsu và đón nhận được ơn cứu độ trước nhiều người khác.
Đứa con thứ hai tượng trưng cho các nhà lãnh đạo Do Thái Giáo, những người tự cho mình là đạo đức, và sống công chính theo Lề Luật. Sự chủ quan và ảo tưởng đó đã làm cho họ tự mãn và khép kín, thấy mình không cần sám hối, nhất là việc sám hối đòi phải tin vào Ðức Giêsu. Điều đó làm cho họ sợ phải mất đi địa vị và quyền lợi, sợ phải thay đổi lối sống đạo. Vì thế, họ chỉ thưa “vâng” bằng lời nói, chứ không muốn “vâng” bằng việc làm. Nhưng tiếc thay, “Đức tin không có việc làm là đức tin chết.” (Gc 2, 17). Giá trị đích thực của một con người không phải ở lời nói mà ở việc làm; không phải là lý thuyết mà là hành động; không phải nói cho thật hay mà làm cho thật tốt.
Kể dụ ngôn xong, Chúa Giêsu kết luận:“Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Lời của Ðức Giêsu như một trái bom nổ trước mặt các thượng tế, kinh sư, và nhóm pharisêu. Phải chăng Chúa muốn lời cảnh cáo đó để may ra cảnh tỉnh được những tâm hồn đã khô cứng, vì tự ái và kiêu căng mà không muốn đón nhận chân lý. Dựa vào Lời Chúa, Đức Gioan Phaolô I cũng nói lên rằng:“Trên thiên đàng không thiếu những người thu thuế và gái điếm, nhưng chắc chắn không có kẻ kiêu ngạo”. Phải chăng kẻ kiêu ngạo không còn khả năng sám hối để sống theo Lời Chúa, không còn khả năng để cảm nhận và đón nhận tình yêu?
Dụ ngôn tuy đơn giản và vắn gọn, nhưng cho thấy điều cốt yếu trong việc sống đạo hay sống đức tin: là thực hành Lời Chúa dạy. Vì không phải nói “Lạy Chúa, lạy Chúa, là sẽ được vào Nước Trời” (Mt 7,21). Không thể dựa vào việc chu toàn những nghi lễ bên ngoài hay một số hình thức luật lệ nào đó là xong. Điều quan trọng không phải là có đạo nhưng là có Chúa; không phải giữ đạo mà là sống đạo, không chỉ là tuyên xưng đức tin mà là sống đức tin.
Lời hứa không bao giờ có thể thay thế được việc làm, và lời nói hoa mỹ không bao giờ thay thế được những nghĩa cử. Con đường của Kitô hữu ở chỗ hành động chứ không phải hứa hẹn; ở chỗ thực hiện chứ không phải nói hay. Tuy nhiên, Chúa vẫn muốn chúng ta có một sự vâng phục trọn vẹn từ lời nói đến việc làm, “ngôn hành như nhất” như tiếng “xin vâng” của Đức Maria, với cả đức tin và lòng mến.
Đời sống chúng ta vẫn có sự giằng co giữa “vâng” và “không”, giữa ý mình và ý Chúa, giữa sự vươn lên của tinh thần và ghì xuống của thân xác. Sự giằng co nói lên thân phận yếu đuối của con người, đã từng ngã nghiêng trong cuộc sống, nhưng cũng là một thao thức muốn vượt qua tình trạng của bản thân. Tuổi trẻ là như thế, nhưng luôn có thể hơn thế, bằng sự quảng đại và nhiệt tình dấn thân cho Nước Chúa.
Cầu nguyện
Lạy Chúa!
Trước một thế giới bạo lực và ích kỷ,
nhiều khi chúng con cũng thất chí,
vì thấy cuộc đời sao vô lý,
nên khép kín và tìm chỗ cách ly.
Chúng con có vẻ như đang kết nối,
nhưng thực sự là củng cố “cái tôi”,
cho dù đang phục vụ trong Giáo hội,
nhưng bó hẹp trong nội bộ mà thôi.
Chúng con quên ơn gọi của chính mình,
là đức ái trong gia đình trước hết,
nhưng đồng thời giữa cảnh đời xã hội,
phải dấn thân cho cuộc trần đang trôi nổi,
dám thay đổi theo đường lối của Tin Mừng.
Chúng con cần ra ngoài nhóm bạn thân,
để xây dựng tình bạn hữu với mọi người,
tránh mọi hình thức phân biệt và kỳ thị,
để tìm kiếm công ích và cổ võ công lý,
làm nên những điều cao quí cho nhau.
Xin cho chúng con có tinh thần tham gia,
từ công việc nhà đến công việc giáo xứ,
từ việc cá nhân đến việc của cộng đoàn,
đừng coi mình như người ngoài cuộc,
nhưng thấy mình luôn có trách nhiệm,
sống tình liên đới với tất cả trái tim,
luôn tích cực góp phần trong mọi việc,
từ vấn đề sinh thái đến bảo vệ thiên nhiên,
từ gìn giữ tài nguyên đến môi trường sạch đẹp.
Xin cho chúng con hòa mình vào xã hội,
với sự nhiệt tình, sáng kiến và tự nguyện,
để xây dựng một thế giới tốt đẹp hơn,
thế giới văn minh, công bình và huynh đệ,
chứ không sống theo chủ nghĩa “mặc kệ”,
kẻo trở nên nô lệ cho chính mình.
Xin cho con thấy Đức Kitô đang sống,
đang hoạt động nơi mọi người thiện chí,
để con đem tâm trí mà sáng tạo cho đời,
làm đẹp mới cho bầu trời nhân loại.
Đừng để con bàng quan nhìn cuộc sống,
mà hãy nhập cuộc với tâm thế hiệp thông,
dám sống như Đức Kitô đã từng sống,
trở nên con người như Chúa vẫn ước mong. Amen.
TỪ VÂNG PHỤC LỀ LUẬT ĐẾN TIN VÀO ĐỨC GIÊSU
Jorathe Nắng Tím
Tin Mừng Chúa Nhật này tuy tiếp tục nói về vườn nho, nhưng không đặt vấn đề thời gian làm việc, lương bổng, và đặc biệt không gọi “người làm vườn nho” là “công nhân, người làm” nữa, nhưng gọi là “Con”, và trọng tâm của dụ ngôn chính là hai người con được mời gọi đi làm vườn nho của Cha mình.
Chúng ta thấy cung giọng của Tin Mừng hôm nay hoàn toàn thay đổi khi tương quan Cha – Con, liên đới gia đình thay thế “thứ bậc” ông chủ – người làm công, lời mời thay cho lệnh, tự do thay “giao kèo, hợp đồng”, nên không còn cảnh kèo nhèo, phân bì, khiếu nại tiền công cuối ngày của đám thợ nghĩ mình bị chủ bóc lột, ăn chặn, xử ép bất công.
Hai người con được cha mời gọi đi làm vườn nho, và cả hai hoàn toàn tự do chấp thuận hay từ chối, toàn quyền quyết định đi hay không đi, và việc vào làm vườn nho không mang tính cách của một hình phạt, án khổ sai, hay công việc dành cho tôi tớ, nhưng là vinh dự chỉ dành cho con cái, và trách nhiệm đương nhiên của người thừa kế gia nghiệp.
Người con thứ nhất ban đầu không muốn đi đã thẳng thắn trả lời Cha : “Con không muốn”. Nhưng anh suy nghĩ lại và hối hận, nên lại đi theo như ý muốn của Cha. Trái ngược với người thứ nhất, con thứ hai đã năng nổ ban đầu, nhưng rồi lại không đi.
Hình ảnh này ngôn sứ Êdêkien đã loan báo khi nói về người công chính và không công chính trong dân Ítraen : Các ngươi lại nói : “Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng”. Vậy hỡi nhà Ítraen hãy nghe đây : Phải chăng đưòng lối của Ta không ngay thẳng hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình” (Ed 18,25-27).
Ngôn sứ nhấn mạnh : đường lối của Thiên Chúa không sai, nhưng sai là do con người có tự do đã từ chối thực hiện đường lối thánh thiện, tốt đẹp của Thiên Chúa, như người Cha đã mời gọi cả hai con cùng vào vườn nho, nhưng quyết định vào hay không tùy thuộc lựa chọn và quyết định tự do của mỗi người.
Đức Giêsu, trong Tin Mừng Mátthêu, khi đưa ra dụ ngôn “hai người con” đã không chỉ nói chung chung, nhưng trực diện và trực tiếp nói với những kinh sư, Pharisêu, và toàn thể giai cấp lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ cái sai của họ, vì họ không tin Ngài. Sở dĩ không tin Ngài, vì họ không thể dứt ra khỏi cơ cấu của truyền thống, không thể gỡ mình khỏi ràng buộc của cơ chế lề luật để tâm hồn mở rộng đón nhận Tin Mừng, trái tim mở cửa đón tiếp Ngài là Đấng Thiên Chúa sai đến. Họ là những người “vị Lề Luật”, sùng bái, tôn thờ Lề Luật nên không ra khỏi não trạng vâng phục Lề Luật cách mù quáng, mà chỉ muốn ở lỳ trong “vòng chi ly, tỉ mỉ của Lề Luật”, nên đã không để Đức Giêsu dẫn vào con đường đức tin, khi từ chối tin Ngài là Con Thiên Chúa.
Chính vì khép kín, lại kiêu căng, ương ngạnh, họ vô tình đánh mất chỗ tốt nhất mang lại nhiều lợi nhuận nhất là chỗ của người có tội, chỗ của những người thu thuế gian tham, chỗ của những cô gái điếm buông thả, lăng loàn, chỗ của phường lưu manh, trộm cướp, nhưng tất cả những người tưởng bị loại bỏ này đã không từ chối con đường Cứu Độ Thiên Chúa mở ra mời gọi, khi họ đặt niềm tin vào Đức Giêsu, như Đức Giêsu đã qủa quyết : “Tôi bảo thật các ông : những ngưòi thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin” (Mt 21,31-32).
Như thế, then chốt của vấn đề, đáp án của nan đề là tin vào Đức Giêsu, Đấng là “Đường, Sự Thật và Sự Sống”, Đấng mà Gioan Tẩy Giả đã trân trọng loan báo và giới thiệu với đám đông : “Đây là Chiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian” (Ga 1,29). Và đó là ý muốn của Thiên Chúa, nên tin Đức Giêsu là Đấng xóa tội, tội lỗi của tội nhân sẽ được Máu Ngài tẩy xóa, rửa sạch ; tin vào Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ nhân hậu, giầu lòng thương xót, thân phận yếu đuối, tội lụy, bất xứng của người có tội sẽ được thương xót, chữa lành. Cũng vậy, Nước Trời sẽ chỉ dành cho những ai đặt niềm tin vào Đức Giêsu, Đấng Cứu Độ, nên bất cứ ai, dù tội lỗi nhưng tin vào Ngài chắc chắn sẽ được Ngài cứu độ, và ban phần thưởng thiên đàng.
Vâng, Đức Giêsu luôn mời gọi chúng ta noi gương Ngài vâng phục trong Tình Yêu “cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cậy thập tự” để từ vâng phục, chúng ta đi đến đức tin, khi tin “Đức Giêsu Kitô là Chúa” (Pl 2,8.11), bởi vâng phục mà thiếu tình yêu, dù là vâng phục Lề Luật, chúng ta sẽ như người con thứ hai nhanh nhẩu trả lời Cha “Con đi ngay”, nhưng lại không đi, vì chỉ vâng phục trong Tình Yêu và với Tình Yêu, chúng ta mới đi đến cùng con đường Thiên Chúa muốn chúng ta đi, mới có thể thực hiện Ý Muốn của Thiên Chúa khi tin vào Đức Giêsu và tuyên xưng Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.
Bông hồng nhỏ
Mỗi ngày, khi ngồi nhìn lại chính mình, ta phải đấm ngực vì bao lẫm lỗi. Ta đã hứa hẹn và rồi cũng có khi ta thất hứa. “Thất hứa” là một hòn đá cản lối trong tương quan, ta chẳng muốn bị nó ngáng chân nhưng đã bao lần vì nó mà ta vấp ngã, mất chữ tín với người anh em và với chính Chúa. Hôm nay, Thầy Giêsu mời gọi ta nhìn lại đời sống của chính mình. Ta là ai trong hai người con được cha sai đi làm vườn nho? Làm sao để ta có thể giữ lời hứa?
Lời hứa chỉ thật sự có giá trị khi nó được biến thành hành động cụ thể. Mau mắn đáp lời xin vâng là điều rất tốt nhưng chưa đủ, ta phải sẵn sàng để thi hành bổn phận đến cùng, không lùi bước khi gặp những trở ngại. Cũng có những khi ta lỡ từ chối một công việc nào đó nhưng khi nhìn lại và thấy hối hận, ta hãy can đảm để sửa sai. Có lẽ chẳng có ai muốn mình bị khiển trách như người con thứ: hứa mà không làm, vâng dạ rồi để đó. Người con đầu được cha sai đi làm vườn nho, anh từ chối ngay: “Con không muốn đâu!” (Mt 21, 29). Cuộc sống của ta cũng thế, có rất nhiều điều ta không muốn làm, có khi ta dám từ chối ngay nhưng cũng có khi vì nể nang mà ta hứa hẹn. Có nhiều công việc đòi hỏi ta phải hy sinh nhiều hơn, chịu vất vả hơn, những việc không phù hợp với sở thích của ta, những việc nằm ngoài khả năng của ta, và những khi ta mắc phải “bệnh lười”, vì thế ta từ chối thực hiện những việc được mời gọi. Có khi, ta lỡ từ chối một cơ hội làm việc tốt và có ích cho ta, điều ấy làm ta tiếc nuối. Những giây phút nhìn lại là những giây phút rất quan trọng, bởi nó giúp ta có thể suy nghĩ về những quyết định và hành động của bản thân. Khi nhìn lại, ta sẽ thấy cả những sai lầm của chính mình, nhìn lại để cho tiếng lương tâm lên tiếng. Lắng nghe tiếng lương tâm, ta sẽ tìm lại được điều đã mất bằng cách sám hối và sửa đổi lỗi lầm. Như người con đầu, ta hãy đi làm việc cha mời gọi, đừng ngại ngần vì trước đó ta đã lỡ từ chối. Nếu ta đã hứa mà không thể thực hiện vì một khó khăn nào đó ta gặp phải, yếu tố ấy nằm ngoài dự đoán của ta, hãy trình bày thật rõ sự việc với người có trách nhiệm để được giúp đỡ. Hứa với ai điều gì ta hãy cố gắng giữ lời hứa. Đừng biến mình thành kẻ hay thất hứa, vì nếu ta thất hứa nhiều lần thì làm sao người khác có thể tín nhiệm ta nữa.
Việc sống Lời Chúa không chỉ dựa trên lời nói nhưng phải đẩy đến chỗ hành động. Sống Lời Chúa không hề dễ dàng vì nó đòi hỏi ta phải dâng hiến tự do của bản thân ta. Thiên Chúa cho ta có quyền tự do chọn lựa: tuân phục hay từ chối tuân phục. Những người thu thuế và những cô gái điếm là những người được liệt vào hàng tội lỗi nhưng khi được ông Gioan Tẩy Giả chỉ đường, họ đã sám hối và tin. Họ đã thay đổi đời sống của mình. Chúa Giêsu đã nói với các thượng tế và kỳ mục rằng: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” ( Mt 21,31b-32). Khi nghe những lời ấy, ta cảm nhận được nỗi buồn của Thầy Giêsu trước thái độ cứng lòng của các thượng tế và kỳ mục. Thiên Chúa là Đấng hằng xót thương ta, Người biết rõ ta vốn yếu đuối và lầm lỗi, Người đang chờ đợi ta sám hối từng ngày. Hãy có lòng khiêm tốn để đến với lòng thương xót của Thiên Chúa, để được Người biến đổi lòng ta.
Lạy Chúa Giêsu! Khi con cứ mãi yếu đuối và lầm lỗi, Người có buồn con không? Mỗi lần con bất lực không thể đứng dậy sau khi vấp ngã, con cứ mãi thất hứa với Người, Người có còn thương con không? Chúa biết con cần Chúa mãi mãi, mãi mãi con cần Chúa. Xin ban ơn cho con biết khiêm tốn nhìn nhận giới hạn của chính mình, biết sám hối sau mỗi lần vấp ngã và biết đặt trọn niềm tin yêu phó thác vào Chúa. Chúa vẫn dành cho con một con đường để trở về, xin Người dẫn con đi trên con đường ấy. Amen.
Anna Cỏ may
Khi yêu nhau, người con gái thường nói ngược lại điều họ mong muốn. Vì thế, có một kết luận rằng: “Con gái nói không là có, con gái nói có là không”. Và rồi trong cuộc sống thường ngày, đâu đó, bản thân chúng ta vẫn có những lời nói như vậy. Chúng ta không muốn làm hay cũng chẳng muốn ăn, nhưng sau đó chúng ta lại đi làm hay đi ăn. Cũng có người miệng luôn một dạ hai vâng khi được trao việc, nhưng sau đó lại không làm hoặc nhờ người khác làm giúp. Bên cạnh đó, có không ít người sống và làm đúng với những gì mình đã nói ra và đã hứa với người khác. Vậy giữa những người này, bạn thuộc tốp người nào?
Hôm nay, Chúa Giêsu kể cho các Thượng tế và Kỳ mục trong dân dụ ngôn “hai người con”. Cả hai người đều được cha sai đi làm vườn nho. Người hỏi họ: “Trong hai người đó, ai là người thi hành ý muốn của cha?” (x. Mt 21, 31). Khi được cha mời gọi: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho” (Mt 21, 28), người con đầu vì không muốn làm nên anh trả lời thật với cha: “Con không muốn” (Mt 21, 29). Sau đó, anh lại hối hận vì lời mình đã nói với cha nên đã đi làm. Thái độ hối hận rồi đi làm của anh cho thấy anh là một người biết suy nghĩ phản tỉnh, biết khiêm tốn nhận ra lỗi và can đảm sửa lỗi. Anh là người có khả năng làm việc cha giao và hoàn thành tốt. Hơn hết, anh nhận ra bổn phận, trách nhiệm của mình trong gia đình. Còn người con thứ hai, anh nhanh nhẹn đáp lời: “Thưa ngài, con đây!” (Mt 21,30). Nhưng, anh lại không đi làm. Phải chăng, đây là câu cửa miệng hằng ngày của anh nên anh không ý thức đủ khi được cha mời gọi. Anh nhận ra mình không đủ sức để làm hoặc đang vướng vào việc khác chăng? Có thể, anh thấy cha đang cần người làm mà người anh trai đã từ chối nên anh lên tiếng xin vâng. Dầu vậy, anh vẫn bị coi là người con không vâng lời cha. Vì thật sự, anh không đi làm việc đã nhận từ cha. Nếu anh biết đến xin lỗi với cha là anh không thể làm việc cha trao thì anh sẽ không bị cha khiển trách.
Chúa Giêsu mời gọi mỗi người hãy luôn thi hành ý Chúa hơn là chỉ nghe suông, nói suông. Ngài cũng để tâm đến những ai biết nhận lỗi và sửa lỗi. Ngài nói rằng những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Trời trước những người chỉ nói mà không làm (Mt 21,31) vì những người thu thuế và gái điếm có thái độ sám hối và tin vào lời mời gọi của Chúa. Họ biết từ bỏ con đường tội lỗi và bắt đầu lại từ đầu trong tình yêu Chúa. Trong tình yêu Chúa, họ thật sự được trở về vị trí của một người con và được hưởng những gì họ được hưởng (x. Lc 15, 11-32). Thánh Phaolô – người môn đệ theo Chúa cũng đã nói: “Đừng chỉ vâng lời trước mặt, như muốn làm đẹp người ta, nhưng như nô lệ của Đức Kitô, đem cả tâm hồn thi hành ý Chúa” (Ep 6,6).
Lời Chúa hôm nay giúp cho bạn nhận ra điều gì nơi mình? Bạn sẽ thực hiện như thế nào cho chính bản thân mình?
Lạy Chúa! Chúa thấu rõ tâm can con. Xin Chúa cho con biết ý thức trong lời nói của mình và biết thống nhất lời nói và hành động, cùng có tinh thần sám hối trong mọi lỗi lầm. Nhờ đó, con luôn sống theo thánh ý Chúa và xứng đáng là người con hiếu thảo. Amen.
Thiên San
Cuộc sống là một chuỗi những chọn lựa. Có những chọn lựa đưa ta đến bình an, vui mừng, hy vọng; nhưng cũng có những lựa chọn khiến ta mất bình an, gây xáo trộn, đổ vỡ ngay trong tâm hồn, trong tương quan. Tại sao vậy? Đó là một cuộc chiến đấu trong ta. Khi chọn lựa theo sự dễ dãi của bản năng, ta khó có thể gặp được an vui, hạnh phúc. Nếu có thì cũng chỉ là giả tạo, mau qua! Ngược lại, khi ta chọn nghe theo tiếng lương tâm, sự thúc đẩy của Thiên Chúa, ta sẽ có được bình an thật, mặc dù ngay khi chọn lựa, ta sẽ gặp phải sự chống đối, mất lòng… Hạnh phúc Nước Trời được xây dựng dựa trên những chọn lựa của lương tâm. Đó là tiếng nói của Tình Yêu và Chân Lý. Thiên Chúa mời gọi ta đáp lời Ngài qua những chọn lựa như vậy.
Thiên Chúa là người cha yêu thương, nhân từ và luôn muốn điều tốt nhất cho ta. Mỗi ngày, Ngài vẫn đến bên và thầm thĩ mời gọi ta: “Này con, hôm nay, con hãy làm vườn nho” (Mt 21,28). Ta tự hỏi, làm việc trong vườn nho là làm những gì? Phải chăng là chu toàn tốt những công việc ta được trao phó? Còn hơn thế nữa! Đó là lời mời gọi ta hãy không ngừng sống yêu thương trong môi trường chúng ta đang hiện diện. Nơi ấy chính là vườn nho và công việc của ta là làm cho tình yêu của Cha được lan tỏa đến với hết mọi người. Đó là một thách đố đòi buộc ta sống “ăn ngay ở lành”, nghe theo tiếng lương tâm, làm ơn cho kẻ ghét ta, đi bước trước đến với tha nhân để gửi trao yêu thương… Thiên Chúa mời gọi ta làm việc trong vườn nho của Ngài với tư cách là một người con. Người con có đủ tự do để nói “có” hoặc “không” trước lời mời gọi của cha mình. Bởi vậy, ta thường nhân danh “tự do” mà không ít lần làm trái ý Cha. Đó là những lần ta chọn làm theo bản năng, ham muốn tự nhiên, lợi ích trước mắt cho bản thân, chạy theo những thú vui giả tạo.
Dân gian có câu: “Thật thà, thẳng thắn thường thua thiệt”. Là con cái Chúa, chúng ta được mời gọi sống theo các giáo huấn của Giáo hội, đặc biệt là qua lời dạy của Đức Giêsu Kitô – Con Một Thiên Chúa. Nhiều lúc, ta bị giằng co giữa hai đàng: một là tiếng nói của bản năng, lợi ích thế gian, hai là tiếng nói của Thiên Chúa qua lương tâm. Có lúc, tiếng nói của bản năng rất mạnh mẽ, cuốn hút còn tiếng nói của lương tâm thì nhẹ nhàng, khó hiểu. Có lúc, cả hai đều mạnh mẽ khiến ta phân vân, và trong ta là “một cuộc chiến đấu cam go”. Như thánh Phaolô từng nói: “Điều tôi muốn thì tôi lại không làm, điều tôi không muốn thì tôi lại làm” (Rm 7,19). Chẳng hạn, trong thi cử, nếu xem tài liệu, điểm ta sẽ cao; còn nếu không xem, ta có thể sẽ bị rớt môn. Hay khi sống giữa một nhóm người chủ trương “lợi nhuận”, bất chấp thủ đoạn, không cần quan tâm đến sức khỏe của người khác, ta có dám đi ngược lại chủ trương đó? Nghĩa là ta chấp nhận mức lợi nhuận thấp, sản xuất hàng hóa sạch, chất lượng, tuân thủ các quy tắc an toàn sức khỏe của mọi người. Khi sống sự công chính, thanh liêm, có thể ta sẽ bị thua thiệt, không giàu có như người khác nhưng đổi lại ta sẽ có được sự bình an đích thực, hạnh phúc Nước Trời đang chờ đợi chúng ta. Và khi sống được như vậy, ta đang xây dựng hạnh phúc cả đời này và đời sau. Đó cũng là một trong những công việc ta cần làm trong vườn nho của Chúa. Lời mời gọi Thiên Chúa dành cho chúng ta là “hôm nay”. Nếu ta đã lỡ từ chối Ngài một điều gì đó, ta hãy hối hận như người con thứ nhất và hãy quay lại thực thi điều Cha muốn. Hơn nữa, “Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình” (Ed 18,27).
Lạy Cha, chúng con cảm tạ Cha đã luôn yêu thương, tin tưởng và mời gọi chúng con làm việc trong vườn nho của Cha. Xin Cha ban ơn giúp sức để chúng con biết sử dụng tự do Cha ban mà mau mắn đáp lại lời mời gọi của Cha trong từng biến cố lớn nhỏ của cuộc sống. Đồng thời, xin cho chúng con luôn biết ăn năn sám hối trở về cùng Cha sau những lần vấp ngã. Vì chúng con tin rằng Cha luôn chờ đợi để ôm chúng con vào tình yêu của Cha.Amen.
Maria Nguyễn Huệ
Trong mỗi người, ai cũng có kinh nghiệm khi sai lỗi, chúng ta thường cảm thấy áy náy, bứt rứt. Có một tiếng nói luôn vang lên trong ta, nó hối thúc ta suy nghĩ về những lời nới, hành động ta đã làm.Tuy tiếng nói ấy nhẹ nhàng nhưng âm đi âm lại, dù đã qua một thời gian dài nhưng vẫn tồn tại trong ta cho đến khi ta thực sự suy nghĩ và nhận biết về hành động của mình và lựa chọn lại để nên tốt hơn. Đó là tiếng nói của lương tâm.Thật kỳ diệu! Đó là một hồng ân lớn lao, tuyệt diệu mà Thiên Chúa đã đặt để trong tận đáy lòng mỗi người. Nhưng làm sao để nghe được tiếng nói ấy? Khi nghe được, ta sẽ hành động như thế nào?
Lương tâm là tiếng nói của Thiên Chúa dành cho con người-tiếng nói của thần linh. Để nghe được tiếng nói ấy, ta cần phải thinh lặng, bỏ qua những ồn ào, những bận rộn và những toan tính khác nhau trong con người mình. Trong cuốn sách “Sức mạnh của sự thinh lặng” tác giả có khẳng định: “Thiên Chúa là sự thinh lặng, Ngài nói trong thinh lặng và thinh lặng là điều cần để gặp Ngài”. Nhìn lại trong thinh lặng, chúng ta có thể nhận định rõ điều chúng ta đang chọn, đang làm và điều phải hướng tới với trách nhiệm, bổn phận trong tình yêu. Với kinh nghiệm của người con thứ nhất, ban đầu anh từ chối không đi “nhưng sau đó, anh hối hận nên lại đi” (x. Mt 21, 29). Qua một khoảng thời gian “sau đó” anh đã chọn làm điều tốt hơn. Thời gian “sau đó” là một khoảng lặng. Sau khi trả lời cha, anh đã để cho tâm hồn mình lặng lại và anh đã đáp lại tình yêu của cha qua việc anh đã đi làm vườn nho. Thinh lặng sẽ giúp chúng ta nghe rõ hơn tiếng nói của Thiên Chúa đang mời gọi chúng ta qua từng lời nói, từng công việc. Chúng ta hãy sống chậm lại, dành thời gian thinh lặng, hít một hơi thật sâu để cảm nhận tiếng nói thần linh đang thầm thĩ với ta.
Khi nghe được tiếng nói ấy, chúng ta hãy mau mắn làm theo. Người con thứ nhất sau khi đã hối hận, anh “lại đi”. Phải chăng anh đã nghe được tiếng nói của tình yêu vang lên trong anh? Tình yêu ấy là tình yêu của người cha dành cho anh. Thiên Chúa cũng đang mời gọi mỗi người chúng ta: “Hãy đi làm vườn nho cho Ta”. Làm vườn nho chẳng gì khác hơn là thể hiện tình yêu của Thiên Chúa – làm chứng cho Tin Mừng ngay giữa trần gian này. Với sức riêng của ta, điều ấy thật khó! Bởi trong chúng ta sẽ luôn xảy ra sự mâu thuẫn, chọn để được lợi ích cá nhân hay hướng đến Thiên Chúa và tha nhân? Trong thư gửi tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: “Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác” (Pl 2,4). Mỗi khi thực hiện như vậy, chúng ta sẽ trở nên giống Chúa Kitô hơn và được trở nên người con quý mến của Chúa Cha. Vậy chúng ta đừng chần chừ nữa nhưng hay bắt đầu làm vườn nho cho Chúa ngay từ giờ phút này, tại nơi chúng ta đang hiện diện bằng những lời nói, suy nghĩ, những cử chỉ yêu thương.
Lạy Cha! Chúng con đã nhiều lần từ chối lời mời gọi Cha dành cho chúng con. Xin Cha tỏ lòng thương xót cùng giúp chúng con biết hoán cải mỗi ngày. Nhờ việc, chúng con đi vào sự thinh lặng để nghe thấy lời mời gọi của Cha ngay trong tâm hồn, để mỗi ngày chúng con biết sống tâm tình con thảo đối với Cha khi mau mắn vâng nghe và thực thi điều Cha mời gọi. Amen.
VIỆC LÀM QUAN TRỌNG HƠN LỜI NÓI
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chàng thanh niên bước vào siêu thị tìm mua mấy thứ cần dùng, vài phút sau anh nhận ra một phụ nữ lớn tuổi đang chăm chú nhìn mình. Không để tâm nhiều đến ánh mắt ấy, vì anh còn nhiều việc phải làm. Khi đến quầy tính tiền, thấy người đàn bà lúc nãy đang đứng đợi, anh lịch sự nhường cho bà xếp hàng trước. Người phụ nữ cười buồn:
– Xin cảm ơn. Tôi thành thật xin lỗi vì đã làm cho cậu khó chịu. Thú thực, trông cậu rất giống con trai tôi, nó mới qua đời cách đây vài tháng.
Động lòng trắc ẩn trước người phụ nữ đáng thương, chàng trai đáp:
– Cho con chia buồn, con có thể làm gì để giúp má?
Người đàn bà vui hẳn lên:
-Khi còn sống, con trai thường đi sắm đồ chung với má, nếu phải chia tay, bao giờ nó cũng nói: “tạm biệt má.” Con có thể nói như thế để ta vơi nỗi buồn không?
Không cần suy nghĩ, chàng thanh niên trả lời:
– Ồ! Con sẵn sàng làm tất cả để má vui.
Chàng trai giúp người phụ nữ bỏ các món hàng vào túi, trước khi bà bước ra cửa, anh đưa tay chào:
– Tạm biệt má!
Người phụ nữ quay lại cười thật tươi và gật đầu. Khi nhận hóa đơn, anh vô cùng ngạc nhiên vì thấy số tiền phải trả là 1.500.000đ, nên hỏi:
-Xin lỗi, cô có tính nhầm không? Những món hàng tôi mua chỉ đáng giá khoảng 400.000đ.
Nhân viên thâu ngân trả lời:
– Người phụ nữ hồi nãy nói anh là con và sẽ trả tiền cho bà.
Câu chuyện nghe thật buồn! Người đàn bà bịa ra chuyện thương tâm và dùng lời ngon ngọt để lừa dối chàng trai tốt bụng. Những chuyện tương tự như thế vẫn xảy ra hàng ngày trong mọi ngõ ngách cuộc sống hôm nay.
Giữa đời thường, có hai hạng người: nói nhiều hơn làm, hứa hẹn đủ điều, nhưng rồi không làm gì cả; làm nhiều hơn nói, không hứa hẹn, không ba hoa khoác lác, nhưng làm những việc đạo đức, nhân hậu, tốt lành, có khi làm một cách kín đáo. Ai cũng thích hạng người thứ hai vì họ chân thành, lấy việc làm chứng minh lời nói.
***
Trang Tin Mừng hôm nay kể dụ ngôn hai người con nhận cùng một lời mời gọi của cha và đáp trả với hai thái độ khác nhau.
– Người con thứ nhất: Lúc đầu từ chối, không vâng lời cha. Nhưng sau đó nghĩ lại, nó đi làm vườn nho cho cha. Đứa con này tượng trưng cho các người thu thuế và người tội lỗi.Tuy đã phạm tội, nhưng sau đó đã hồi tâm và tin theo Chúa Giêsu mà quay về với Thiên Chúa.
– Người con thứ hai: Lúc đầu ngoan ngoãn vâng lời cha, nhưng sau đó nó lại không đi làm vườn theo ý cha. Đứa con này có vẻ công chính, tượng trưng cho các Thượng tế Kinh sư và Pharisiêu. Tuy giữ luật Môsê trong từng chi tiết, nhưng họ lại từ chối Gioan Tẩy Giả, người đã đến chỉ đường công chính. “Thưa cha, con đây”: câu trả lời lễ phép của một đứa con ngoan ngoãn hiếu thảo, sẵn sàng vâng nghe lời cha dạy bảo; “Nhưng rồi lại không đi”: đứa con này mới chỉ vâng lời cha bằng môi miệng bề ngoài. Sau đó nó không đi làm vườn nho theo lời cha dạy. Nó có thái độ “ngôn hành bất nhất“, “nói mà không làm“, “nói một đàng mà làm một nẻo”. Một lối sống vụ hình thức bề ngoài. Một thái độ đạo đức giả. Người con thứ hai ám chỉ những Thượng tế, Kinh sư và Pharisiêu. Thời ấy, họ là những bậc vị vọng, họ tự xưng mình là đạo đức, công chính, trong sạch. Thực tế họ rất giả hình. Nói rất hay nhưng không thực thi điều mình nói. Họ nói mà không làm.
Giữa lời nói và việc làm thường có một khoảng cách rất lớn. Nói thì dễ nhưng làm thì khó. Con người dễ rơi vào thói nói nhiều làm ít, hoặc chỉ nói suông mà không làm, hoặc còn tệ hơn nữa khi việc làm mâu thuẫn với lời nói.
- Nói và làm, một tiêu chuẩn để xét định đời sống.
Kể dụ ngôn, Chúa Giêsu hỏi: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?”. Họ trả lời: “Người thứ nhất”. Đó là người nói không, nhưng đã hối hận và đi làm việc. Ở đây rõ ràng có hai loại người: nói ít làm nhiều và nói nhiều làm ít.
- Nói ít làm nhiều.
Nói ít không phải là “ít nói” vốn thường hiểu theo nghĩa tiêu cực bộc lộ một lòng trí tối tăm hay lòng dạ mưu mô. Nói ít cũng chẳng phải là không có gì để nói hay không biết nói gì. Trái lại người nói ít là người biết mình nói gì và cũng là người có khả năng nói nhiều với chính mình bằng ngôn ngữ tư tưởng, với người bằng ngôn ngữ hành động. Chính vì thế họ dễ trở thành những người “làm nhiều”. Những người nói ít làm nhiều thường là những người tốt bụng, nhiệt thành với công việc, chu toàn nhiệm vụ và biết trách nhiệm. Họ không làm phiền người bên cạnh. Họ thích làm tốt cho người khác. Họ không bận tâm đến tiếng chê, chẳng nặng nợ với lời khen. Họ chăm chỉ làm việc và quan tâm tới từng việc làm. Với họ, làm là cách nói tốt nhất.
- Nói nhiều làm ít.
Có những người nói nhiều mà làm chẳng được bao nhiêu. Họ là những người hay nói. Hay nói chưa chắc nói hay nhưng chắc chắn một điều: hay nói là một cánh cửa luôn rộng mở cho những người thích nói hay nói tốt về mình, để làm điều kiện thuận lợi cho việc dèm pha phê bình người khác. Đây là một nguy cơ của việc nói nhiều. Có biết đâu phê bình người khác lại là một cách bộc lộ lòng dạ mình ra. Mang kính đen thì phê bình sao người khác đen quá, giống như lưỡi đắng có bao giờ thấy canh ngọt. (x. Làm nụ hoa trắng, trang 90-91, ĐGM Vũ Duy Thống).
- Nói và làm, hai thái độ sống
Sau câu hỏi, Chúa Giêsu tuyên bố một câu nghe thật nhức nhối: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông”. Các Thượng tế, Kinh sư và Pharisiêu không chịu nghe Lời Chúa, không ăn năn sám hối. Những người thu thuế và gái điếm, khi được mời gọi đã thành tâm sám hối ăn năn.
Có hạng người nói mà không làm và hạng người làm mà không nói.
- Người nói mà không làm. Họ tự cho là mình đạo đức, nhưng khi Chúa Giêsu rao giảng, họ không những không tin mà còn phê phán chỉ trích những người tin Chúa, chỉ trích chính Chúa đã đón tiếp người tội lỗi.
- Người không nói nhưng lại làm. Đó là những người thu thuế và những cô gái điếm. Tuy sống tội lỗi, nhưng khi nghe Chúa rao giảng, họ đã ăn năn sám hối và tin vào Chúa.
- Những bài học
Qua dụ ngôn, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta hai bài học quan trọng.
- Việc làm quan trọng hơn lời nói.
Chính việc làm minh chứng lời nói. Chính việc làm mới có sức thuyết phục. Lý thuyết dù có hay có đẹp đến đâu nếu không thực hiện được thì cũng vô ích. Trong đời sống, chúng ta gặp không ít những người nói hay, nói nhiều, nhưng làm chẳng bao nhiêu. Nhưng trái lại, có những người nói không hay, có khi không nói gì cả, nhưng lại làm rất nhiều. Nhất thời chúng ta có thể thích những người nói hay. Nhưng sống càng lâu, chúng ta càng mến những người nói ít làm nhiều. Con đường đi từ trái tim đến đôi tay là một con đường dài và gian khổ. Rung động trước nổi khổ của người khác là điều tốt, giúp cho họ bớt khổ là điều tốt hơn. Thánh Gioan khuyên rằng: “Hỡi anh em, đừng yêu mến bằng lời nói suông, nhưng bằng việc làm thực sự” (1Ga 3,18).
Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy. Chúa yêu chuộng những người làm việc hơn là những người chỉ biết nói suông. Những Luật sĩ Biệt phái Kinh sư bị lên án dữ dội vì họ giả hình. Họ nói mà không làm. Họ đặt gánh nặng lên vai người khác nhưng bản thân lại tránh né. Ngày nay cũng vậy, có những bậc cha mẹ dạy con cái phải giữ đạo, phải cầu nguyện, dự lễ, nhưng chính mình lại biếng nhác, không làm gương sáng cho con cái. Chúa đòi hỏi phải thực hành: “Không phải những ai nói rằng: Lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng là những kẻ làm theo ý Cha Ta trên trời” (Mt 7,21). Đức tin phải biểu lộ bằng việc làm mới là đức tin sống động. Thánh Giacôbê dạy: “Đức tin không có việc làm là đức tin chết” (Gc 2,17). Tình yêu cũng phải có việc làm. Việc làm minh chứng tình yêu đích thực. Tin yêu Chúa phải được biểu lộ bằng việc làm.
- Hãy làm một cách khiêm tốn.
Những người Pharisiêu làm gì cũng muốn phô trương. Muốn tỏ ra mình đạo đức, họ đeo lề luật trên trán, trên tay. Ðeo rồi, sợ người khác không nhìn thấy, họ phải “đeo những hộp kinh thật lớn, may những tua áo thật dài” để cho mọi người biết họ yêu mến lề luật, giữ đạo cặn kẽ. Thói phô trương dễ biến thành tự phụ tự mãn, hợm hỉnh. Nên những người Pharisiêu “ưa ngồi cỗ nhất trong đám tiệc, chiếm hàng ghế đầu trong hội đường, ưa được người ta chào hỏi ở những nơi công cộng và được thiên hạ gọi là thầy“.
Khi phê phán người Pharisiêu, Chúa Giêsu muốn cho môn đệ hãy sống đạo trong kín đáo: “Khi làm việc lành phúc đức, anh em phải coi chừng, chớ có phô trương cho thiên hạ thấy. . . Vậy khi bố thí, đừng có khua chiêng đánh trống, như bọn đạo đức giả thường biểu diễn trong hội đường và ngoài phố xá, cốt để người ta khen. Thầy bảo thật anh em, chúng đã được phần thưởng rồi. Còn anh, khi bố thí, đừng cho tay trái biết việc tay phải làm, để việc anh bố thí được kín đáo. . . Và khi cầu nguyện, anh em đừng làm như bọn đạo đức giả: chúng thích đứng cầu nguyện trong các hội đường, hoặc ngoài các ngã ba ngã tư, cho người ta thấy. . . Còn anh, khi cầu nguyện, hãy vào phòng, đóng cửa lại, và cầu nguyện cùng Cha của anh, Ðấng hiện diện nơi kín đáo. Và Cha của anh, Ðấng thấu suốt những gì kín đáo, sẽ trả lại cho anh” (Mt 6,1-6). Kín đáo làm việc đạo đức là dấu chỉ lòng mến Chúa chân thực. Lòng mến Chúa chân thực sẽ dẫn đến thái độ khiêm tốn, luôn biết kính trọng người khác và luôn biết phục vụ anh em.
Xin Chúa giúp chúng con biết sống “ngôn hành như nhất” để lời nói và việc làm của chúng con luôn đẹp lòng Chúa và mưu ích cho tha nhân. Amen
Lm Vũđình Tường
Dụ ngôn người cha nói với hai người con đi làm vườn nho là dụ ngôn nói về Thiên Chúa sai Kitô hữu đi làm nhân chứng Tin Mừng. Trong dụ ngôn này nhắc đến hồi tâm, thống hối trở về củng Chúa là điều cần thiết. Hồi tâm bắt đầu bằng việc lắng nghe lời Chúa, từ đó dẫn đến hồi tâm thống hối, ăn năn. Thống hối ăn năn bằng cách từ bỏ nếp sống cũ, bắt đầu nếp sống mới, đặt căn bản trên lời Chúa, yêu thương, tha thứ, giao hoà. Đức Kitô nói với lãnh tụ Đền Thờ vào giới Trưởng Lão về dụ ngôn hai người con. Theo truyền thống chuyện hai người con trong Cựu Ước luôn là những chuyện bi thương, đau khổ. Thí dụ như hai anh em Cain và Abel là chuyện anh em giết nhau. Chuyện Giacóp và Esau là chuyện tranh giành vật chất, thế lực. Chuyện Giuse và các anh ông là chuyện ghen tị. Đức Kitô hỏi các vị lãnh đạo Đền Thờ và giới Trưởng Lão, người con nào làm theo lời cha mình. Trong dụ ngôn này không thấy phân biệt con trưởng hay con thứ mà chỉ nói đến hai con. Cũng không thấy nhắc đến người con thưa không nghe lời cha nên người cha mới sai người con khác. Cả hai đều được sai đi làm vườn nho. Người cha nói với hai con đi làm vườn nho cho ông. Người thứ nhất đáp ‘Thưa Ngài, con sẽ đi’ nhưng anh ta không đi. Người con kia đáp ‘Con không đi’ nhưng sau đó anh ta hồi tâm và đi làm theo í cha. Vậy người con nào làm theo í cha. Tất cả đều đồng í người con hồi tâm đi làm vườn nho là người con làm theo í cha. Về ngôn từ thì người con đáp ‘Thưa Ngài, con sẽ đi’ là người con vâng lời cha. Người con đáp ‘con không đi’ là trái í cha. Về hành động thì người con vâng lời cha là người con hồi tâm thống hối, đi làm vườn nho. Như thế cả hai đều vâng lời: một người vâng lời trên lí thuyết, một người vâng lời trên hành động, thực hành. Hay ngược lại cả hai đều trái í cha. Một trái trên lí thuyết, một trái trên hành động. Theo tinh thần dụ ngôn trên thì vâng lời trên lí thuyết chính là không vâng lời, không có giá trị. Vâng lời trên hành động mới là thực tế, mới chính thực là vâng lời. Chính câu Đức Kitô hỏi nói rõ điều này. Người con nào làm theo í cha? Không phải là nghe mà hành động, thực hành í cha chính là điều Đức Kitô chú trọng đến. Câu trả lời đúng là người con hồi tâm, đi làm vườn nho. Để làm cho rõ nghĩa hơn, Đức Kitô nhắc đến thành quả rao giảng của Gioan Tiền Hô, để rõ người con nào làm theo í cha, người con nào không. Gioan Tiền Hô đi trước mở đường cho Đấng Cứu Thế. Đám đông tin là ông được Thiên Chúa sai đi làm công việc mở đường. Đức Kitô hỏi lãnh tụ Đền Thờ và giới Trưởng Lão: Phép rửa của Gioan đến từ trời hay do loài người? Nếu trả lời đến từ trời, nhóm lãnh tụ Đền Thờ và Trưởng Lão sẽ không thể giải thích tại sao họ không tin lời Gioan rao giảng để thống hối. Nếu trả lời Gioan rao giảng là do con người trần thế, họ sẽ bị đám đông phản đối, và mất sự hỗ trợ từ đám đông. Đức Kitô tiến thêm một bước nữa Ngài nói với họ. Nhóm thu thế, và nhóm mà các ông gọi họ là kẻ tội lỗi, là những người ăn chơi đến nghe Gioan rao giảng và thống hối. Lúc đầu nhóm này lắng nghe lời Chúa nhưng từ chối sống yêu thương, tha thứ. Khi nghe Gioan rao giảng họ ăn năn, thống hối, hồi tâm, xin nhận phép rửa từ Gioan là dấu chỉ của thành tâm thống hối. Lãnh đạo Đền Thờ và giới Trưởng lão, các vị tự nhận là người công chính, là môn đệ của Môisen (Gioan 9,29). Không những các vị từ chối làm theo lời Gioan hướng dẫn, các vị còn hạch sách Đức Kitô. Chất vấn Ngài ai cho phép ông làm như thế? Bởi đâu mà ông dám xử dụng quyền hành như vậy? Mat 21,23. Đức Kitô dùng dụ ngôn hai người con nói cho lãnh tụ Đền Thờ và giới Trưởng Lão biết là quí vị vâng lời Thiên Chúa trên lí thuyết. Quí vị rao giảng lời Chúa cho người khác thực hiện, còn chính quí vị không thực hành điều Thiên Chúa truyền dậy. Quí vị không phục vụ trong khiêm nhường. Quí vị không yêu thương đồng loại. Như thế qúi vị có lối sống của người con thưa với cha mình ‘Thưa Ngài, con sẽ đi’ nhưng trong tâm thì không đi. Nhóm thu thuế và kẻ ăn chơi không vâng lời Thiên Chúa qua lí thuyết, nhưng họ khiêm nhường nhận tội, nhận mình sai và thống hối, trở về cùng Thiên Chúa. Nhóm này đại diện cho người con thưa với cha mình ‘Con không đi’ nhưng sau đó hồi tâm, thành tâm đi làm vườn nho. Thiếu yêu thương đồng loại và thiếu thực thi công bằng, bác ái thì không thể nào biện minh là quí vị làm theo í Thiên Chúa là chủ vườn nho. Chúng ta xin ơn biết sống làm theo í Chúa, yêu Chúa, pục vụ tha nhân.
Trầm Thiên Thu
Có rất nhiều loại cặp đối, gọi là “đối” thì phải có ít nhất hai vế – có thể là cụ thể hoặc trừu tượng. Có cái này để biết cái kia, có kẻ dữ để nhận biết người lành – như lúa và cỏ lùng; có màu này để phân biệt màu khác; có người nói nhiều để nhận ra người điềm tĩnh. Người thế này, người thế khác, ngay cả chiếc lá cũng có hai mặt. Mỗi người mỗi vẻ, chúng ta gọi đó là phong cách.
Có những điều tưởng là trái ngược nhau mà lại không đối lập, gọi là “nghịch lý thuận.” Có những trường hợp có vẻ xuôi thuận mà lại đối nghịch, gọi là “thuận lý nghịch.” Cuộc đời phức tạp và có nhiều loại triết lý, biết được điều này lại thấy mình ngu dốt cái khác, thảo nào người ta cứ phải học mãi mà chẳng biết hết.
Nhờ cha mẹ cho đi học mà chúng ta biết trong toán học có tỷ lệ thuận và nghịch. Nếu biết cặp giá trị tương ứng của hai đại lượng tỷ lệ thuận và một giá trị khác của đại lượng này thì có thể tìm được giá trị tương ứng của đại lượng kia. Toán học cũng có quy tắc tam xuất đơn – thuận và nghịch. Quy tắc tam xuất đơn thuận: Nếu A tăng N lần, B tăng N lần (nhân với N). Quy tắc tam xuất đơn nghịch: Nếu A tăng N lần, B giảm N lần (chia cho N).
Chúa Giêsu cũng đề cập tình trạng thuận – nghịch: “Ai không đi với tôi là chống lại tôi, và ai không cùng tôi thu góp là phân tán.” (Mt 12:30; Lc 11:23) Dạng đối nghịch tuyệt đối là “tội phạm tới Chúa Thánh Thần,” không được tha cả đời này và đời sau.
Phong cách liên quan tính cách, kể cả phong tục tập quán của vùng miền hoặc dân tộc, thế nên có sự thuận và nghịch giữa những con người với nhau. Ở đây không có ý nói “theo phe” hoặc “chống lại” nhau, mà chỉ có ý đơn giản và bình thường. Tuy không là thù địch, nhưng vẫn có người này “hợp” với người kia hoặc “không hợp” với người nọ, ngay cả anh chị em trong gia đình cũng vậy. Hai người hợp nhau thì dễ nói chuyện, dễ thông cảm, dù không cần nói gì; ngược lại, hai người không hợp nhau thì rất khó nói chuyện và khó thông cảm, khoảng im lặng nặng nề. Nếu đối nghịch nhau thì rất dễ xung đột.
Ngày xưa, dân chúng to gan lớn mật, ăn ngang nói ngược với cả Đấng tạo dựng nên mình: “Đường lối của Chúa Thượng không ngay thẳng.” (Ed 18:25) Liều lĩnh thật, chẳng kém gì Ông Bà Nguyên Tổ. Đúng là di truyền gen kiêu ngạo. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, đó là điếc không sợ súng, dốt mà kiêu, ngu mà chảnh. Hết nước nói!
Vì thế, Thiên Chúa thẳng thắn đặt vấn đề với họ: “Vậy hỡi nhà Ít-ra-en, hãy nghe đây: Phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng? Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính mà chết, thì chính vì điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết. Còn nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình. Nó đã thấy và từ bỏ mọi tội phản nghịch nó phạm, thì chắc chắn nó sẽ sống, nó không phải chết.” (Ed 18:26-28) Chắc hẳn Ngài cũng đang chất vấn chúng ta như vậy, và dĩ nhiên chúng ta cũng chẳng biện minh được gì. Đối với nhân loại, cái chết là thất bại lớn nhất, chính tội lỗi khiến con người phải chết, (Rm 5:12; Rm 5:21) chứ Thiên Chúa không bắt chúng ta chết – vì Ngài cực tốt cực lành.
Phàm nhân chẳng đáng chi, bởi vì chỉ là bụi đất, (St 3:19) vậy mà vẫn thách thức Thiên Chúa, thậm chí còn dám nổi loạn, phản động, chống lại Ngài – cụ thể là phạm tội như cơm bữa. Tuy nhiên, Ngài không chấp lũ “đầu đất” như chúng ta, do đó Ngài vẫn luôn nhớ đến và quan tâm, (Tv 8:5) đồng thời còn kiên trì chờ đợi chúng ta hối lỗi: “Đối với các dân tộc khác, Chúa Tể nhẫn nại chờ đợi cho đến khi tội lỗi chúng ngập đầu mới trừng phạt; còn đối với chúng ta, Người không xử như thế.” (2 Mcb 6:14) Quả là Lòng Chúa Thương Xót quá lớn lao, ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta cố chấp thì cùng đường: “Nếu các ngươi không chịu nghe Ta, thì Ta sẽ còn sửa phạt các ngươi gấp bảy lần vì tội lỗi của các ngươi.” (Lv 26:18) Thật đáng sợ, vì như vậy là hết lối thoát.
Ước gì chúng ta biết khôn ngoan như Thánh Vịnh gia: “Lạy Chúa, đường nẻo Ngài, xin dạy cho con biết, lối đi của Ngài, xin chỉ bảo con. Xin dẫn con đi theo đường chân lý của Ngài và bảo ban dạy dỗ, vì chính Ngài là Thiên Chúa cứu độ con. Sớm hôm con những cậy trông Ngài, bởi vì Ngài nhân ái.” (Tv 25:4-5) Cầu xin và muốn được Thiên Chúa nhậm lời thì phải biết chân thành sám hối. Đó là điều kiện hoàn toàn có lợi cho chúng ta. Thật vậy, Thiên Chúa lúc nào cũng chờ đợi và luôn sẵn sàng nghe chúng ta thú nhận tội lỗi và van xin chân thành: “Lạy Chúa, xin nhớ lại nghĩa nặng với ân sâu Ngài đã từng biểu lộ từ muôn thuở muôn đời. Tuổi xuân trót dại bao lầm lỗi, xin Ngài đừng nhớ đến, nhưng xin lấy tình thương mà nhớ đến con cùng. Chúa là Đấng nhân từ chính trực, chỉ lối cho tội nhân, dẫn kẻ nghèo hèn đi theo đường công chính, dạy cho biết đường lối của Người.” (Tv 25:9)
Lời hứa là lời đẹp, nhưng phải thật lòng, phải cố gắng chấn chỉnh cách sống, chứ không chỉ hứa suông. Thiên Chúa biết rõ chúng ta có họ hàng với chú Cuội nên dễ hứa lèo. Thế nhưng Ngài không chấp, mà Ngài xem chúng ta có rán sức hết mình hay không. Quả thật, “nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được.” (Tv 130:3) Tuy nhiên, đừng thấy Ngài nhân từ mà làm tới, “được đằng chân lân đằng đầu,” kẻo mà lợi dụng lòng thương xót của Ngài.
Biết mình để khiêm tốn, biết Chúa để yêu mến. Biết sám hối là biết kết nối với Ngài, như cành nho dính vào thân nho. Thánh Phaolô khuyên: “Nếu quả thật sự liên kết với Đức Kitô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, nếu tình bác ái khích lệ chúng ta, nếu chúng ta được hiệp thông trong Thần Khí, nếu chúng ta sống thân tình và biết cảm thương nhau, xin anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng MỘT cảm nghĩ, cùng MỘT lòng mến, cùng MỘT tâm hồn, cùng MỘT ý hướng như nhau.” (Pl 2:1-2) Sống được như vậy là “nên một” theo ý muốn của Đức Kitô. (x. Ga 17:21-23) Và đó là điều tất cả chúng ta phải phấn đấu không ngừng.
Một thế giới đại đồng không có trong xã hội ngày nay, vì thế mà chúng ta phải nỗ lực nhiều hơn. Một lần nọ, ban chấp hành của một hội đoàn Công giáo (TGP Saigon) rủ tôi ăn uống chung, chỉ là để “cho vui” thôi. Tuy nhiên, chỉ sau khoảng 10 phút, tôi thấy người thì “vạch lá tìm sâu,” người thì “bới bèo ra bọ,” họ “căng thẳng” với nhau, tôi thấy bất lợi nên xin ra về. Thật đáng buồn! Bản chất con người luôn đề cao “cái tôi,” vì thế mà rất nguy hiểm, cần phải luôn cố gắng “đè nén” nó. Ngay cả khi chúng ta làm việc gì gọi là “vì Chúa,” thực ra chúng ta vẫn “vì mình” nhiều lắm, chẳng biết Chúa có vinh danh chút nào hay không. Thánh Phaolô đã từng cảnh báo: “Đừng làm chi vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Giữa anh em với nhau, anh em hãy có những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu.” (Pl 2:3-5) Khó lắm, vì thế luôn phải cố diệt “cái tôi” đáng ghét.
Cố gắng dứt khoát thì làm được. Thánh Phaolô dẫn chứng: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.” (Pl 2:6-9) Điều này được nghe đi nghe lại nhiều lần rồi, nhưng có mấy lần chúng ta “giật mình,” hay chỉ nghe tai này rồi qua tai kia? Quả thật, chúng ta tội lỗi lắm, tội với Chúa và cả với tha nhân nữa.
Đức Giêsu Kitô có tất cả mọi sự, vì Ngài là Ngôi Hai Thiên Chúa, nhưng Ngài đã tự hạ đến tột cùng, vì thế Ngài xứng đáng được Thiên Chúa Cha siêu tôn: “Khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa.” (Pl 2:10-11) Cứ xét theo lẽ thường của loài người thì cũng thấy hoàn toàn hợp lý.
Qua trình thuậtMt 21:28-32 , Chúa Giêsu đề cập hai con người với hai phong cách trái ngược nhau qua dụ ngôn Hai Người Con. Đây cũng chính là “hai con người” hoặc “hai bộ mặt” trong mỗi chúng ta. Hôm đó, các thượng tế và kỳ mục hỏi vặn Chúa Giêsu về quyền hành. Ngài thản nhiên nói: Một người cha nọ có hai con trai, ông sai người con thứ nhất đi làm vườn nho, nhưng nó nói thẳng là “không đi.” Có thể nó không rảnh hoặc không vâng lời, cãi ngay. Nhưng rồi nó hối hận và đi làm. Ông cũng sai người con thứ hai đi làm, nó chấp nhận ngay, nhưng rồi nó lại không đi. Bằng mặt mà không bằng lòng, bên ngoài tỏ vẻ ngoan hiền nhưng bên trong lại phản động.
Chúa Giêsu hỏi họ rằng đứa nào đã thi hành ý muốn của người cha. Họ trả lời ngay là đứa thứ nhất. Giả sử Ngài trực tiếp hỏi chúng ta thì hẳn là ai cũng có thể trả lời được, không gì khó. Chúa Giêsu nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông.” Ôi chao, nghe “sốc” quá chừng! Thế nhưng đó là thực tế, là sự thật. Ngài biết họ “ngứa óc” nên Ngài nói thẳng: “Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy.” Trúng tim đen rồi!
Có lần Chúa Giêsu xác định: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ GIỮ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Ai không yêu mến Thầy thì KHÔNG GIỮ lời Thầy.” (Ga 14:23-24) Rất rõ ràng và mạch lạc, không khó hiểu, thế nên không ai có thể biện minh vì bất cứ lý do gì. Chữ YÊU ngắn gọn mà hàm súc. Có khi chúng ta là đứa con thứ nhất, có khi chúng ta lại là đứa con thứ hai. Mưa nắng thất thường. Chính “cái tôi” to lớn và dữ dằn lắm, cần phải luôn cảnh giác với nó. Thánh Phaolô cũng đã từng lo sợ: “Tôi bắt thân thể phải chịu cực và phục tùng, kẻo sau khi rao giảng cho người khác, chính tôi lại bị loại.” (1 Cr 9:27) Nói hay mà làm dở thì thật là khốn!
Ước gì chúng ta luôn biết đè bẹp “cái tôi” và tâm niệm như Thánh Gioan Tẩy Giả: “Chúa phải LỚN lên, còn tôi phải NHỎ đi.” (Ga 3:30) Đó là phong cách tuyệt vời của mỗi tín nhân. Có vậy thì Thiên Chúa mới thực sự vinh danh, và chỉ có Ngài xứng đáng như thế. Tất cả vì danh Ngài, thụ tạo chúng ta không đáng là gì cả, giả sử có làm được gì cho Ngài thì cũng là trách nhiệm và bổn phận mà thôi.
Lạy Thiên Chúa giàu lòng thương xót, xin ban cho con được hưởng ân xá của Ngài. “Con đã phạm bao nhiêu tội lỗi? Bao nhiêu lần con đã phản nghịch, đã đắc tội với Ngài, xin cho con được biết.” (G 23:13) Xin giúp con ý thức để biết mình, biết Ngài và biết tha nhân. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA
Lm Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Mt 21,28-32
(28) Các ông nghĩ sao ? Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: “Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho”. (29) Nó đáp: “Con không muốn đâu !” Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. (30) Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: “Thưa ngài, con đi !” nhưng rồi lại không đi. (31) Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha ?” Họ trả lời: “Người thứ nhất”. Đức Giê-su nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. (32) Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy”.
- Ý CHÍNH: DỤ NGÔN VỀ HAI NGƯỜI CON
Qua dụ ngôn “Hai người con”, Đức Giê-su muốn gián tiếp cảnh cáo thái độ giả hình của bọn đầu mục Do Thái, và kêu gọi họ hồi tâm sám hối để được ơn cứu độ. Dụ ngôn trình bày thái độ của hai đứa con: Người thứ nhất ám chỉ các người thu thuế và tội lỗi, tuy phạm tội, nhưng đã tin vào Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. Người con thứ hai ám chỉ các đầu mục dân Do Thái. Tuy họ tuân giữ Luật Mô-sê, nhưng lại không tin Gio-an Tẩy Giả, được Thiên Chúa sai đến để chỉ con đường công chính. Sau cùng Đức Giê-su khẳng định: “Những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”.
- CHÚ THÍCH:
– C 28-29: + Các ông nghĩ sao ?: Đức Giê-su nói với các thượng tế và kỳ mục dân Do Thái tại Giê-ru-sa-lem (x. Mt 21,23-27). Họ đòi Đức Giê-su phải chứng minh nguồn gốc của Người do Thiên Chúa sai đến (23). Để trả lời, Người đòi họ xác định sứ mệnh của Gio-an Tẩy Giả: “Phép rửa của Gio-an do đâu mà có ? Do trời hay do người ta ?”. Nếu họ nhận là do trời, thì tại sao họ lại không tin lời của Gio-an làm chứng về Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai ? + Một người kia có hai con trai: Người kia là cách nói trống ngôi, ám chỉ Thiên Chúa. Hai con trai tượng trưng cho hai thành phần của dân Do Thái là các người tội lỗi và các đầu mục Do thái tự cho mình là công chính. + Người con thứ nhất: ám chỉ các người thu thuế và cô gái điếm. Lúc đầu họ đã không tuân giữ Luật pháp của Thiên Chúa. Nhưng nhờ nghe và tin lời rao giảng của Đức Giê-su mà đã ăn năn sám hối trở thành con ngoan của Thiên Chúa. + Con hãy đi làm vườn nho: Đi làm vườn nho tức là thi hành ý muốn của Thiên Chúa. + Con không muốn đâu: Câu trả lời thể hiện thái độ cự tuyệt ý muốn của cha. Điều này cho thấy những kẻ tội lỗi đã sống trái với thánh ý Thiên Chúa. + Nhưng sau đó nó hối hận, nên lại đi: Ở đây không cho biết lý do tại sao người con thứ nhất hối hận. Chỉ biết rằng nó đã nhận ra lỗi lầm và hồi tâm sám hối để tuân theo ý muốn của cha.
-C 30-31: + Ông đến gặp người thứ hai: Người thứ hai là những kẻ tự hào mình công chính, ám chỉ các đầu mục gồm các thượng tế và kỳ mục dân Do Thái. + Thưa ngài, con đây !: Đây là câu trả lời lễ phép của một đứa con hiếu thảo, sẵn sàng vâng giữ lời cha. + Nhưng rồi lại không đi: Đứa con này mới chỉ vâng lời cha bằng mặt chứ không bằng lòng, nên sau đó nó đã không đi làm vườn nho như ý muốn của cha. Đây là thái độ “ngôn hành bất nhất”, “Nói mà không làm”. Đây cũng là thái độ đạo đức giả của các thượng tế và kỳ lão. Họ giữ Luật Mô-sê từng chi tiết nhưng lại không tin vào Đấng được Thiên Chúa sai đến là Đức Giê-su. + Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người Cha ?: Đặt ra câu hỏi này, Đức Giê-su muốn các đầu mục Do thái đặt mình trước mặt Thiên Chúa. + Những người thu thuế và những cô gái điếm: Đây là hai hạng người bị xã hội Do Thái khinh dể, vì họ không giữ Luật Mô-sê và có đời sống tội lỗi, gây gương xấu cho kẻ khác. + Vào nước Thiên Chúa trước các ông: Những người thu thuế và gái điếm vì biết hối cải mà tin theo Đức Giê-su nên họ sẽ có chỗ trong Nước Thiên Chúa mà Người sắp thiết lập, thay cho các đầu mục là các thượng tế và kỳ mục dân Do Thái.
– C 32: + Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông: Gio-an Tẩy Giả nhờ có lối sống khổ hạnh và sự rao giảng phép rửa thống hối, đã cho dân Do thái biết phải chuẩn bị tâm hồn thế nào để đón Đấng Thiên Sai hầu được trở nên công chính trước mặt Thiên Chúa. + Mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin: Các thượng tế và kỳ mục Do Thái đã không tin lời Gio-an Tẩy Giả. Ngược lại, các người thu thuế và các cô gái điếm đã đến nghe lời Gio-an rao giảng và đã tin Đức Giê-su. + Còn các ông…: Các đầu mục Do Thái dù đã nhìn thấy lối sống khổ hạnh và được nghe lời Gio-an Tẩy Giả kêu gọi mọi người “ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng”, nhưng họ vẫn cứng lòng không tin lời Gio-an, do đó cũng không tin Đức Giê-su, nên họ sẽ không được vào Nước Thiên Chúa do Người thiết lập.
- CÂU HỎI:
1) Hai con trai trong dụ ngôn ám chỉ hai hạng người nào trong dân Do thái ? 2) Thái độ đối với Thiên Chúa của hai hạng người này khác nhau thế nào ? 3) Tại sao người thu thuế và gái điếm lại bị dân Do thái khinh dể ? Do đâu mà họ sẽ được vào Nước Thiên Chúa trước các thượng tế và kỳ mục Do thái ? 4) Tại sao các đầu mục Do thái không được gia nhập vào Nước Thiên Chúa do Đức Giê-su thiết lập ?
II. SỐNG LỜI CHÚA
- LỜI CHÚA: Đức Giê-su nói với họ: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (21,23).
- CÂU CHUYỆN:
1) AU-GÚT-TI-NÔ – MẪU GƯƠNG SÁM HỐI:
Thánh Au-gút-ti-nô, sinh năm 534, tại Tac-gat, xứ An-giê-ri, Phi Châu, trong một gia đình giàu có, nhưng thiếu đạo đức. Mẹ là bà thánh Mô-ni-ca, một mẫu gương cho các bà mẹ công giáo về việc sống đạo và giáo dục con cái bằng đời sống và bằng lời cầu nguyện nữa… Từ nhỏ, Au-gút-ti-nô có tư chất thông minh khác người, đã được theo học khoa hùng biện tại Cac-tha-ge ; nhưng tại đây ngài đã lây nhiễm các thói hư tật xấu ở đời. Lời dạy dổ của Mẹ, giáo lý đã học đuợc từ nhỏ, Au-gút-ti-nô đã bỏ ngoài tai. Au-gút-ti-nô hầu như đã mất đức tin, ngài còn tin theo lạc thuyết Ma-nê nữa. Ngài hầu như đã trả lời “không” khi được Chúa gọi vào làm vuờn nho cho Chúa. Vì sống trong tội lỗi, nên tâm hồn của Au-gút-ti-nô không được bình an… Sau đó ngài được mời sang Rô-ma để làm giáo sư khoa hùng biện.
Đây cũng là ý Chúa, nhờ đó ngài đuợc giao tiếp thường xuyên với thánh Giám mục Am-bro-si-ô, và cũng từ đây ngài đã trở lại với niềm tin công giáo và đã chấp nhận “đi làm vườn nho cho Chúa”, mặc dù một khoảng thời gian dài đã từ chối lời mời gọi của Chúa.
2) PHẢI GIỮ CHỮ TÍN TRONG LỜI NÓI KHI GIÁO DỤC CON CÁI:
Vợ thầy Tăng Tử từ nhà đi chợ thì đứa con khóc đòi đi theo, bà liền bảo con:
– Con cứ ở nhà đi, rồi về nhà mẹ sẽ làm thịt lợn cho con ăn!
Khi vợ đi chợ về, thầy Tăng Tử liền xuống chuồng bắt lợn làm thịt. Bà vợ liền nói với chồng: “Tôi chỉ nói đùa với nó thôi mà !”. Thầy Tăng Tử liền bảo: “Nói đùa thế nào được ? Đừng khinh trẻ thơ không biết gì. Cha mẹ làm gì nó thường hay bắt chước. Nay mình nói dối nó, chẳng là mình dạy con nói dối ư ?” Tăng Tử nói xong liền làm thịt lợn cho con ăn.
Chỉ vì một lời nói bông đùa của vợ, mà thày Tăng Tử đã phải làm thịt lợn để cho con ăn. Người có nhân cách là như thế đó ! Một lời nói mà không đi đôi với việc làm là một lời nói vô giá trị.
3) SỨC MẠNH CỦA MỘT CÔ GÁI ĐIẾM LÀ CÔNG MINH CHÍNH TRỰC
Một hôm nghe tin về một cô gái điếm tuy tội lỗi, nhưng lại có một quyền năng siêu phàm, vua A-đúc (Ashoka) đã triệu vời cô ta tới và yêu cầu cô hãy thi thố tài năng để xem thực hư tài năng ra sao. Trước mặt nhà vua, các quần thần, các đạo sĩ và đám đông dân chúng đang tụ tập hai bên bờ sông Hằng, cô gái điếm kia đã thi thố tài năng: cô đã ra lệnh cho dòng sông đang chảy cuồn cuộn phải chảy ngược dòng, gây ra những tiếng động ầm ầm long trời lở đất. Đang khi đó, các vị đạo sĩ tuy đã dày công tu luyện nhiều năm và rất am tường Phật pháp lại đành chịu bất lực trước nạn lụt hàng năm, nước sông dâng lên tràn bờ đê, gây ra cảnh lụt lội lớn lao, làm cho nhân dân dọc theo hai bên dòng sông bị lầm than đói khổ ! Nhà vua không thể tin được là một cô gái điếm, được xếp vào hạng tiện dân và tội lỗi lại có sức mạnh siêu phàm như vậy. Bấy giờ vua hỏi cô gái rằng: “Do đâu mà một kẻ tội lỗi ti tiện như ngươi lại làm được việc lớn lao phi thường như thế ?” Cô gái đáp: “Tâu đức vua, đó là nhờ đức hạnh của tiện nữ !”. Đức vua liền cười khẩy và vặn hỏi: “Thế đức hạnh của ngươi ra sao ?”. Cô đáp: “Tâu đức vua, đức hạnh của tiện nữ chính là do cách cư xử công chính đối với mọi người. Khi tiếp chuyện với bất cứ ai, dù họ là bậc quân vương, quý tộc hay đám dân thường, tiện nữ đây cũng hết lòng tôn trọng và luôn đối xử vẹn tình trọn nghĩa. Tuyệt đối không dám khinh thường hoặc gian dối với bất cứ một người nào cả !”.
Theo lời cô gái trong câu chuyện trên: Muốn có sức mạnh làm được những việc phi thường, thì người ta phải ăn ở công chính, nghĩa là đối xử công minh chính trực với mọi người. Trong Tin Mừng hôm nay Đức Giê-su đã nêu tên Gio-an Tẩy Giả và đòi những ai muốn được cứu độ phải tin vào Gio-an và đi theo con đường công chính của ông. Người nói: “Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy. Còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy”.
4) HẬU QUẢ TAI HẠI CỦA THÁI ĐỘ “NÓI MÀ KHÔNG LÀM”:
Trong cuốn tiểu thuyết “The Fall” của ALBERT CAMUS, có thuật lại câu chuyện về một chàng luật sư đáng kính đang đi trên đường phố tại thủ đô Amsterdam nước Hà Lan. Đột nhiên anh nghe thấy có tiếng la thất thanh giữa đêm tối “Cứu tôi với” và nhận ra đó là tiếng của một phụ nữ bị té ngã từ bờ đê rơi xuống sông. Một tư tưởng chợt lóe lên trong đầu anh luật sư: “Ta phải ra tay cứu giúp cho chị ta mới được. Nhưng ngay lúc đó anh lại suy nghĩ: Chẳng lẽ một luật sư nổi tiếng như ta mà lại can dự vào việc nhỏ mọn này sao ? Còn bao nhiêu người khác đâu cả rồi ?… Nếu ta ra tay giúp đỡ thì có gặp nguy hiểm không ? Có ai chứng kiến để làm nhân chứng về sau không ? Chính khi còn đang chần chờ suy tính thì đã quá trễ, bây giờ anh có muốn cứu nạn nhân cũng không còn làm gì được nữa. Rồi anh chàng luật sư tiếp tục bước đi, và suy nghĩ để tìm ra mọi lý lẽ để biện minh cho thái độ đã làm ngơ trước người gặp nạn. Cuối cùng tác giả CA-MUS, đã kết luận như sau: “Anh ta thực sự đã không đáp lại tiếng kêu cứu của người gặp nạn. Đó chính là bản chất con người của anh ta !”
- SUY NIỆM:
Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã tuyên bố một câu khiến các đầu mục dân Do Thái phải sững sờ : “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa trước các ông”. Một số nhà chú giải Kinh Thánh đã giải thích từ “vào trước” không chỉ có nghĩa là vô “trước” so với vô “sau”, nhưng là sự “thay thế”. Vì các đầu mục Do Thái “đã không tin”, nên họ sẽ không đủ điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa, chứ không phải sẽ “vào sau”. Như vậy câu này có thể được dịch như sau: “Những người thu thuế và gái điếm sẽ vào Nước Thiên Chúa thế chỗ cho các ông”. Và các đầu mục dân Do Thái sẽ bị loại ra ngoài Nước Thiên Chúa.
1) LÝ DO ĐẦU MỤC DO THÁI KHÔNG CÓ CHỖ TRONG NƯỚC THIÊN CHÚA:
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en trong Bài Đọc Một đã nêu ra lý do thứ nhất khiến các đâu mục Do thái bị mất chỗ trong Nước Thiên Chúa như sau : “Khi người công chính từ bỏ lẽ công chính của mình và làm điều bất chính, thì chính điều bất chính nó đã làm mà nó phải chết” (Ed 18,26). Thực vậy, người ta thường nghĩ mình vẫn đang là người tốt trong khi thực sự đã trở nên xấu. Để rồi đến giờ chết, khi tưởng mình sẽ được vào Nước Thiên Chúa, nhưng thực sự mình lại không có chỗ trong đó ! Bài Tin Mừng cho biết lý do như sau : Người cha đến nói với đứa con thứ: “Con hãy đi làm vườn nho cho cha”. Nó đáp: “Thưa vâng, con đi”. Nhưng rồi nó lại không đi (Mt 21,30).
Thực vậy, nhiều người thường tự lừa dối mình khi cho rằng chỉ cần nói: “Thưa vâng” với Chúa là đủ. Các đầu mục Do Thái đã “thưa vâng” nhiều lần khi tuân giữ Luật Mô-sê từng chi tiết. Chính chúng ta ngày nay cũng “thưa vâng” như thế khi năng dự lễ, đọc kinh… Nhưng như thế vẫn chưa đủ điều kiện để được vào Nước Thiên Chúa.
2) TẠI SAO NGƯỜI THU THUẾ VÀ GÁI ĐIẾM ĐƯỢC VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA ?
Ngôn sứ Ê-dê-ki-en cũng cho biết lý do thứ nhất để các tội nhân được vào Nước Thiên Chúa như sau: “Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình” (Ed 18,27). Còn lý do thứ hai họ phải có là thái độ hoán cải giống như đứa con thứ nhất, lúc đầu từ chối, nhưng “sau đó nó hối hận nên lại đi” (Mt 21,29).
Thực ra, cả hai câu trên đều chung một lý do là: Phải biết hối hận về tội lỗi quá khứ của mình và hồi tâm hoán cải. Thực vậy, rất nhiều câu chuyện được diễn tả trong phim ảnh cũng như trong đời thường về những người có một quá khứ tội lỗi như trộm cướp, trùm Ma-phi-a… nhưng rồi họ đã được biến đổi để không những trở nên người tốt, mà còn trở thành người có lòng vị tha bác ái cách đặc biệt. Có những tú bà hay những cô gái điếm sau khi hoàn lương, đã bỏ được nếp sống nhơ nhớp trước kia, để sống đời sống mới đầy lòng mến Chúa yêu người như thánh nữ Ma-ri-a Mác-đa-la. Họ xứng đáng được Chúa cho vào Nước Thiên Chúa để thế chỗ những kẻ tuy đã từng có thời sống tốt, nhưng đã dần biến chất trở thành những kẻ đạo đức giả, như các đầu mục dân Do Thái thời Đức Giê-su.
3) ĐỨC TIN HÀNH ĐỘNG: ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯỚC THIÊN CHÚA :
Ki-tô giáo là một tôn giáo của lòng tin. Nhưng “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,17). Lòng tin không phải chỉ là tuyên xưng đức tin ngoài môi miệng, nhưng phải được thể hiện bằng chính cuộc sống vâng theo ý Thiên Chúa như Đức Giê-su dạy: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa ! Lạy Chúa ! Là được vào Nước Trời cả đâu ! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
Dòng đời luôn thay đổi, và con người cũng dễ đổi thay: Hôm nay có thể chúng ta đang là người tốt, nhưng ngày mai có thể chúng ta sẽ biến thành kẻ xấu và ngược lại. Do đó, chúng ta đừng vội hãnh diện về quá khứ đạo đức của mình, mà mất cảnh giác đến nỗi không nhận ra mình đang biến đổi trở thành người xấu.
Mỗi người chúng ta hãy năng tự kiểm vào mỗi buổi tối về những điều đã dốc quyết với Chúa. Vì dù ta có nói giỏi nói hay bao nhiêu, mà không giữ được điều đã dốc quyết, hoặc “ngôn hành bất nhất”, là ta đã tự đánh mất danh dự và uy tín, và điều ta nói sẽ không còn được ai tin. Mỗi ngày chúng ta hãy xin Chúa giúp từ bỏ tội lỗi và các thói hư để xứng đáng được Chúa cho vào Nước Trời sau này.
4) SỐNG ĐỨC TIN LÀ “XIN VÂNG” THÁNH Ý THIÊN CHÚA:
Một người đã luôn thưa vâng với Thiên Chúa từ đầu đến cuối, trong lời nói cũng như hành động, chính là Đức Giê-su Ki-tô. Người chính là một người hoàn hảo luôn làm hài lòng Thiên Chúa, như Chúa Cha đã giới thiệu sau khi Người chịu phép rửa của Gio-an như sau: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người”. Thánh Phao-lô cũng đã diễn tả về Đức Giê-su trong thư gửi tín hữu Phi-lip-phê như sau: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).
Mỗi người chúng ta hãy nhìn vào Đức Giê-su để suy niệm và học tập theo Người như Người đã dạy: “Anh em hãy mang lấy ách của tôi và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường, và tâm hồn anh em sẽ gặp được bình an”.- “Anh em gọi Thầy là “Thầy”, là “Chúa”, điều đó phải lắm, vì quả thật, Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. – “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Đức Giê-su cũng mời gọi chúng ta đi làm vườn nho là gia nhập Nước trời. Người cũng đòi chúng ta một sự lựa chọn dứt khoát: Hãy dâng cho Chúa tất cả lời nói và việc làm như lời thánh vịnh: “Này con xin đến để làm theo ý Chúa” (Tv 39,8a), và lời cầu nguyện của Đức Giê-su: “Lạy Cha, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).
- THẢO LUẬN:
Đức Giê-su nói: ”Có đầy trong lòng mới trào ra ngoài cửa miệng – Lòng đầy thì miệng mới nói ra !” Hiện tại lời nói của bạn đang xây dựng hòa bình, gia tăng hiệp nhất hay đang gây bất hòa chia rẽ và ly tán ?
- CẦU NGUYỆN:
LẠY CHÚA GIÊ-SU. Xin cho chúng con tránh thái độ của người con thứ trong Tin Mừng: “Thưa vâng” rồi không làm. Nhiều lần chúng con đã thưa vâng với Chúa khi đi xưng tội, đã quyết tâm đổi mới trong các buổi sám hối chung, rồi sau đó chúng con vẫn sống và phản ứng theo nếp cũ sai trái của mình! Xin cho chúng con biết năng tự kiểm về tư tưởng lời nói việc làm và những điều thiếu sót vào giờ kinh tối cuối ngày. Xin cho chúng con tránh những ảo tưởng về mình để khỏi trở thành những người Pha-ri-sêu đạo đức giả. Hy vọng sau khi được ơn tha thứ, chúng con sẽ yêu Chúa nhiều hơn, sẽ quảng đại hiến dâng cho Chúa tất cả, để được Chúa ban hồng ân cứu độ cho chúng con.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
THI HÀNH THÁNH Ý CHÚA BẰNG VIỆC LÀM
Lm Trần Bình Trọng
Dụ ngôn hai người con được người cha sai đi làm vườn nho nhấn mạnh đến sự tương phản giữa lời hứa và việc làm. Người con thứ nhất từ khước, không chịu ra làm vườn nho, nhưng rồi đổi ý.
Anh ta là loại người có lương tâm biết hối hận. Sau một thời gian suy đi nghĩ lại, lương tâm bảo anh ta cần hối cải và hành động. Còn người con thứ hai hứa làm vườn nho, nhưng lại không thi hành. Anh ta thuộc loại người sẵn sàng nói có, đồng ý với người cha, muốn cho cha hài lòng, nhưng chỉ bằng môi miệng mà không có hành động.
Chúa Giêsu kể dụ ngôn này để cảnh giác các thượng tế và kì mục trong dân. Họ thuộc về dân được chọn. Qua Thánh kinh Cựu ước, các ngôn sứ tiên báo cho họ về việc Ðấng Thiên sai sẽ đến. Và họ cam kết đón chờ Ngài. Tuy nhiên khi Gioan tiền hô đến rao giảng phép rửa sám hối, họ lại không chịu hối hận với niềm tin. Họ còn từ khước Ðấng cứu thế. Trái lại, những người thu thuế và tội lỗi lúc đầu từ khước lời dạy bảo trong Thánh kinh, sau lại tin theo đường công chính mà Gioan chỉ cho họ (Mt 21:32). Họ còn sẵn sàng lắng nghe và đón nhận lời Ðấng cứu thế. Vì thế mà Chúa nói với nhóm thượng tế và kì mục: Những người thu thuế và gái điếm vào Nước Thiên Chúa trưóc các ông (Mt 21:31).
Thiên Chúa ban cho loài người ý chí tự do và Chúa tôn trọng tự do lựa chọn của loài người. Nếu không có tự do lựa chọn, thì không có vấn đề thưởng phạt. Hay nói cách khác, nếu không có tự do lựa chọn, thì vấn đề thưởng phạt là điều bất công. Do đó sự lựa chọn của loài người bao hàm việc chúc lành hay chúc dữ. Và đó là ý nghĩa của bài trích sách ngôn sứ Êdêkien hôm nay: Nếu kẻ gian ác từ bỏ điều dữ nó đã làm, mà thi hành điều chính trực công minh, thì nó sẽ cứu được mạng sống mình (Ed 18:27). Nếu không có tự do lựa chọn thì bài Phúc âm hôm nay không còn ý nghĩa. Nếu không có tự do lựa chọn thì người con hứa mà không làm vườn nho trong Phúc âm cũng không phải mang trách nhiệm.
Hôm nay mỗi người cần tự xét xem lời nói của mình có đi đôi với hành động, nghĩa là xem lời nói và hành động của mình có ăn khớp với nhau không? Khi cầu nguyện, ta có thể nói ta mến Chúa và yêu tha nhân. Tuy nhiên ta không đem ra thực hành. Ta có thể nói dạ vâng với Chúa và người láng giềng bằng những lời dịu dàng ngon ngọt. Ta nói như vậy để lấy lòng và tỏ ra lịch sự với họ, nhưng lời nói của ta không đi đôi với việc làm. Ta có thể đi tĩnh tâm nghe giảng, nghe lời Chúa dạy trong Thánh kinh, bảo ta phải sống theo đường lối Chúa và chính ta cũng muốn sống theo đường lối của Người. Tuy nhiên ta không tìm ra những biện pháp cụ thể để thi hành, không đặt ra những chương trình hành động thiết thực sau những mối cảm súc nhất thời.
Giả sử có đứa con luôn nói với cha mẹ – con yêu mến cha mẹ – nhưng không bao giờ làm điều cha mẹ truyền dạy. Mỗi khi cha mẹ nhờ làm việc gì, đứa con luôn đánh trống lảng. Như vậy thì ta phải thắc mắc không biết đứa con có thành thực không, hoặc là đứa con bị bệnh đãng trí. Chúa cũng nhìn thấy như vậy. Và Chúa bảo các tông đồ: Nếu các con giữ các giới răn Thày truyền, các con sẽ ở lại trong tình yêu của Thày (Ga 15:10). Nơi khác Chúa còn nói: Không phải bất cứ ai thưa với Thầy ‘Lạy Chúa! Lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời đâu. Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Ðấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi (Mt 7:21). Chính Ðức Giêsu, mặc dầu là Thiên Chúa cũng đã vâng phục thánh ý Chúa Cha, xuống thế làm người và chịu chết trên thập giá để cứu chuộc loài người (Pl 2:6-8).
Nếu được hỏi xem ta thuộc loại người nào: người con thứ nhất hay người thứ hai, hoặc lời nói và hành động của ta có ăn khớp không? Nếu trung thực với lòng mình, ta phải nhận rằng mỗi người đều mang một số tế bào và lượng máu – nhiều hay ít – của cả hai người con. Nói cách khác mỗi người đều mang những tính nết, có thể là rõ rệt, hay ngấm ngầm của cả hai loại người. Vậy thì, nếu ta đã từ khước ơn Chúa, hoặc tẩy chay lời mời gọi của Chúa như người con thứ nhất, để làm việc nọ chuyện kia cho Chúa hoặc cho người tàn tật, đau khổ, xấu xố, ta xin Chúa cho được hồi tâm nghĩ lại. Nếu ta đã hứa với Chúa như người con thứ hai, mà không làm, ta cũng xin Chúa tha thứ những lần thất hứa đó.
Bao nhiêu lần ta đã thề hứa với Chúa chẳng hạn như trên đường vượt biên ngoài biển cả, khi thuyền bị hết xăng, khi bị sóng to bão lớn ập vào thuyền, khi bị hải tặc rượt đuổi, ta đã hứa với Chúa những gì? Có phải ta đã hứa: Nếu Chúa để con sống sót, cho con cập bờ tới bến bình an, con sẽ làm cho Chúa điều này chuyện nọ? Có những điều ta không cần phải hứa, nhưng thuộc bổn phận ta phải làm cho Chúa, cho người nọ người kia do lòng hiếu thảo và lòng biết ơn thúc đẩy: những người đã làm ơn cho ta, những người mà ta mắc nợ họ. Vậy ta đã làm chưa?
Ðể nhắc nhở ta làm bù lại điều mà mình đã chối bỏ, hoặc làm điều mình đã hứa với Chúa hay tha nhân mà quên chưa làm, ta cần tìm cách thế nhắc nhở cho mình như ghi vào lịch, để nhắc nhở cho ta ngày tháng năm đó, ta sẽ làm việc này việc nọ. Ðời xưa chưa có lịch hay không có lịch, hay người ta không biết đọc thì họ dùng phương pháp thắt chỉ cổ tay như là cách nhắc nhớ cho mình làm việc nọ chuyện kia. Không có gì phải ngăn cản ta dùng phương pháp thắt chỉ cổ tay xưa kia hay đeo vòng gì đơn giản vào tay để nhắc nhở mình về việc phải làm. Nếu không, người mà ta mắc nợ họ, sắp nằm xuống, hoặc chính ta sắp nằm xuống vĩnh viễn, mà ta không có cơ hội làm cho họ, thì lương tâm ta có thể không yên.
Lời nguyện xin cho được thi hành ý Chúa bằng việc làm:
Lạy Chúa, Chúa luôn trung thành với lời giao ước
Chúa đã làm với loài người.
Xin tha thứ những lần con lỗi lời giao ước với Chúa.
Cũng xin thứ tha những lần con từ khước ơn Chúa
và lời mời gọi của Chúa để làm việc nọ chuyện kia.
Xin ban cho con một lương tâm biết hối hận
và một ý chí kiên trì để con thực thi ý Chúa. Amen.
Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng
Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu nói tới hai loại người qua hình ảnh hai người con: Người con thứ nhất, bảo đi làm thì nói không đi, nhưng rồi lại làm như ý người cha.
Người con thứ hai, gọi dạ bảo vâng, nhưng rồi không chịu đi làm. Rồi chính Chúa đã giải thích cho chúng ta biết: người con thứ nhất ám chỉ những người thu thuế và những người đàng điếm, hai loại người này bị xã hội Do Thái khinh miệt nhất. Những người thu thuế bị khinh miệt vì họ cấu kết với ngoại bang để bóc lột đồng bào mình. Vì thế dân chúng oán ghét họ và liệt họ vào hạng người phản quốc, bỏ đạo và không thể ăn năn hối cải. Còn những ả giang hồ thì thời nào cũng vậy, đều bị xã hội khinh miệt sát đất, coi họ là hạng người xấu xa, làm dơ bẩn xã hội, và cũng không thể được cứu rỗi.
Ngược lại, người con thứ hai, ám chỉ những thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu thời ấy, là những người tự xưng mình là đạo đức, công bằng, trong sạch, nhưng là thứ đạo đức, công bằng, trong sạch giả hình, bôi bác. Ngoài miệng thì nói hay lắm, nhưng không thực thi điều mình nói. Đó là những người “ngôn hành bất nhất”: nói mà không làm.
Nhưng tại sao Chúa lại nói với các thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ vào nước trời trước các ông”? Bởi vì những thượng tế, kinh sư và Pha-ri-sêu khi Chúa giảng dạy, không chịu nghe, coi thường lời Chúa, không ăn năn sám hối. Còn những người thu thuế và gái điếm, khi dược Chúa kêu gọi, họ đã thành tâm sám hối. Chúng ta thấy: những người nói sẽ làm, rồi lại không làm, là loại người đáng trách. Còn những người nói không làm, rồi lại làm, là loại người đáng khen.
Chúng ta biết: từ tư tưởng đến lời nói và tới việc làm là cả một con đường dài xa xăm. Thực vậy, một khuôn vàng thước ngọc, dù có hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng là không hay và vô ích. Cũng thế, có tư tưởng hay mà không đem thực hành thì cũng như một bông hoa không bao giờ kết trái. Chúng ta vẫn nói: “Ăn vóc học hay”: ăn để mà học, học để mà biết, biết để mà làm. Không biết thì không thể làm gì được, chỉ còn biết đứng tựa cột mà nghe. Nhưng biết mà không làm thì giống như người đầy tớ đem chôn nén bạc và bị xét xử. Hơn nữa, biết mà lại cứ làm sai thì càng bị xét xử nặng hơn. Cho nên, đã biết thì làm, cả hai đi song song nhau, hỗtrợ nhau, thì mới hữu dụng, hữu ích. Nhưng thực tế, trong xãhội, chúng ta thấy có những người biết mà không làm, hoặc nói thì rất hay nhưng lại không chịu làm.
Câu nói: “Năng thuyết bất năng hành”: hay nói mà không hay làm, hoặc nói được làm không là như thế. Ở đời này, hơn thua nhau ở chỗ lý thuyết và thực hành: một lý thuyết dù hay mấy mà không đem ra thực hành thì cũng vô ích. Nhưng tại sao chúng ta nói mà không làm? Có thể là vì chúng ta không có khả năng hành động, có thể là vì chúng ta lười biếng, có thể là vì chúng ta chống đối, bất tuân không muốn làm, có thể là vì việc làm đó không đem lại lợi ích gì cho chúng ta. Tuy nhiên, nói mà không làm thì lời nói không có giá trị và về sau người ta không tin lời chúng ta nói nữa. Cũng thế, “đức tin không việc làm là đức tin chết”. Cho nên, có đạo lý đúng và hay chưa đủ mà còn phải sống và thực hành thì mới minh chứng được đạo lý đó đúng hay sai.
Bài Tin Mừng nhắc nhở chúng ta hãy xét lại, hãy nhìn lại: lời nói và việc làm của chúng ta có đi đôi với nhau không? Chúng ta yêu cầu người khác phải sửa sai, nhưng chính chúng ta có biết tự sửa sai không? Chúng ta phê bình người khác, nhưng chúng ta có rờ lên gáy mình không? Hay là chúng ta thấy cái rác trong mắt người mà không thấy cái xà trong mắt mình? Hay là ” chân mình thì lấm mê mê, lại cầm bó đuốc mà rê chân người”? Trong phạm vi gia đình, thật không gì tai hại cho bằng nói mà không làm: chúng ta bảo con cái phải biết nhường nhịn, tha thứ cho nhau, nhưng chúng ta thì lại cứ ăn thua đủ, không ai nhường ai. Chúng ta bảo con cái phải sống thành thật, nhưng chúng ta lại cứ quanh quéo, gian dối với người khác. Trong đời sống đạo đức cũng vậy, liệu tâm hồn chúng ta có phải là tâm hồn Kitô đích thực không? Liệu đời sống của chúng ta có phải là một thể hiện những gì chúng ta tuyên xưng không? Hay chúng ta chỉ có cái vỏ Kitô bên ngoài? Nếu chúng ta sống như vậy, chúng ta hãy coi chừng, chúng ta sẽ bị Chúa cảnh cáo: những người khác sẽ vào nước trời, còn chúng ta thì sao?
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
Những gì hôm qua thì đã qua, chuyện ngày mai thì chưa tới, còn việc hôm nay thì đang ở trong tầm tay. Đã là người có lương tri bình thường thì không ai vô tâm, bạc tình khi sống quay lưng với cội nguồn lịch sử và cũng ít có ai sống mà không hướng tới tương lai. Tuy nhiên, không thể chối cãi rằng cái hôm nay mới là cái mang tính quyết định. Chính vì thế nhiều lúc chúng ta cần phải có thái độ “tự do” một cách nào đó với những gì đã qua và với những gì chưa tới.
Đừng quá bám víu vào sự đã qua cho dù đó là những thành quả lẫy lừng, những chiến công hiển hách hay là những thất bại ê chề, những lỗi lầm tủi nhục. Nếu quá khứ của ta là những sự màu hồng thì đáng trân trọng, nhưng hãy coi chừng chuyện thường tình của kiếp người là rất dễ ngủ quên trên chiến thắng và nhất là hãy đề phòng cám dỗ tự kiêu, tự mãn, một cám dỗ thường gây “hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Thực tiễn cho thấy chuyện vì tự hào, tự mãn “đã đánh thắng hai đế quốc to”, nên các nhà lãnh đạo nước Việt Nam đã dần đưa đất nước ngụp lặn trong hố sâu của nghèo khó, tụt hậu do chính cái tư duy, nếp nghĩ và cung cách hành xử kiểu “chủ quan, duy ý chí” một thời gian không ngắn. Nếu quá khứ của ta vướng đầy những sự nhuốm màu tím hay đen thì cũng đáng nghiền ngẫm để tự kiểm và rút kinh nghiệm, nhưng cũng phải canh chừng cám dỗ buông xuôi, ngã lòng. Lỗi lầm nào cũng để lại vết thương đau. Thất bại là mẹ thành công. Có người do bị ám ảnh bởi những lỗi lầm, hay thất bại của quá khứ mà nản chí, buông xuôi. Cũng có người biết tích lũy những vết thương đau thành chuỗi kinh nghiệm làm nền tảng cho những thành quả hôm nay. Bài học lịch sử thật đáng quý, tuy nhiên lịch sử không phải là vòng tròn lặp lại cái đã qua như cũ, như xưa.
Đừng quá ảo vọng vào những gì chưa đến. Tương lai thường chất chứa những sự tốt đẹp, vì đó là ước mơ của con người. Chẳng ai lại đi mơ ước điều xấu xa tồi tệ cho chính mình. Họa hiếm mới có một đôi người, khi ở trong tình trạng bất bình thường, mới mong những sự chẳng nên cho bản thân. Đã là người, cần phải có hoài bão và ước mơ. Tuy nhiên cũng cần thận trọng trước cám dỗ xa rời thực tế. Đã có đó một vài chủ thuyết vẽ vời viễn ảnh tương lai “to đẹp hơn gấp mười, gấp trăm ngày nay” để rồi lòe bịp đồng loại lãng quên không nhìn thẳng vào cái hiện tại, một hiện tại đầy bất công, dối trá…
Thiên Chúa là Đấng của hôm nay: Với Thiên Chúa, cái hiện tại là cái quan trọng nhất, là cái có tính quyết định. Trước đây ngươi sống công chính mà bây giờ ngươi làm điều gian ác thì ngươi phải chết. Người tội lỗi xưa làm nhiều sự gian ác mà bây giờ bỏ điều dữ, làm điều chính trực công minh thì sẽ được sống. Ngôn sứ Êdêkien minh nhiên nói thay Thiên Chúa sự thật này (x.Ed 18,27-28).
Đến trần gian, Chúa Kitô thường cảnh tỉnh nhiều vị lãnh đạo Do Thái thời bấy giờ, những người vốn tự hào về công nghiệp đã qua của mình. Khi kể câu chuyện về hai người con, Chúa Kitô đã làm nổi rõ cái giây phút hiện tại. Người con cả sở dĩ được chấp nhận dù trước đó không vâng lời cha nhưng giờ này anh hối hận và vâng theo lời cha. Trái lại, người con thứ, trước đó đã mau mắn đáp vâng lời cha mà giờ này anh lại không làm theo ý cha thì cũng bằng không. Để khẳng định chân lý này Chúa Kitô còn nói với những Thượng Tế và kỳ mục hôm ấy bằng một kiểu nói long trọng: “Tôi bảo thật các ông: Những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông. Vì ông Gioan đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy, còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin” (Mt 21,31-32). Một số nhà chú giải phân tích chữ “trước” còn có nghĩa là “thay thế”, nghĩa là những người thu thuế và gái điếm sẽ thế cái chỗ của các vị Thượng Tế và kỳ mục trong Nước Trời. Kết thúc dụ ngôn “Người Cha nhân hậu”, Chúa Kitô đã nêu bật lời của người cha với đứa con cả: “Chúng ta phải ăn mừng và hoan hỉ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy”(Lc 15, 32).
Sống mà không có ngày mai là một cuộc sống thiếu định hướng, thiếu tinh thần cầu tiến. Tuy nhiên cái của ngày mai phải được đặt nền tảng vững vàng trên cái của hôm nay. Nhiều khi chúng ta có thể quá lo lắng cho những sự chưa đến mà bỏ quên bổn phận trong hiện tại. “Anh em đừng lo lắng về ngày mai, ngày mai, cứ để ngày mai lo…” (Mt 6,34). “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” (Mt 6,11). “Hôm nay, nếu các ngươi nghe tiếng Người, đừng cứng lòng nữa!” (x.Tv 95,7-8).
Đừng để đến ngày mai những gì tốt đẹp và phải đạo có thể làm trong ngày hôm nay: Xét về mặt tiêu cực, dưới nhãn quan đức công bằng thì nếu giam tiền công nhật của người làm công đến hôm sau là đã phạm lỗi bất công (x.Lv 19,13). Còn trên bình diện đức ái thì nếu bỏ qua một việc tốt, một việc lành trong khả năng và hoàn cảnh của ta hôm nay thì đã phạm một điều tồi tệ, đó là tội thiếu sót mà chúng ta thường đấm ngực thú lỗi trong phần khởi đầu của Thánh Lễ: Tôi thú nhận cùng Thiên Chúa và cùng anh chị em: tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói và những điều thiếu sót…”.
Lúc sinh thời, mỗi khi gặp những người bệnh tật, dù đó là ngày Lễ nghỉ và theo luật Do Thái giáo bấy giờ thì không được phép, nhưng Chúa Giêsu vẫn ra tay thi ân giáng phúc, bất chấp nhiều luật sĩ và biệt phái giận dữ chống đối và thậm chí còn tìm cách giết Người. Phải làm ngay hôm nay, lúc này, ở đây (hic et nunc) những điều chính đáng và phải đạo trong hoàn cảnh và khả năng của mình. Bởi chưng, nhiều lúc, chính khi không làm điều thiện là làm điều ác, không cứu sống là giết chết, không bênh vực công lý là toa rập với sự gian dối, bất công… (x.Mc 3,4).
Những kẻ tự cao là những người luôn nhớ và muốn kẻ khác nhớ mình đã làm một sự gì đó. Những người tự ti là những người không thể quên và nghĩ rằng người ta không thể quên mình đã lầm lỡ một sự gì đó. Những người lười biếng là những người luôn muốn làm một sự gì đó (mà không bao giờ làm) ( Les paresseurs sont ceux qui toujours veulent faire quelque chose – Ngạn ngữ Pháp ). Những người hèn nhát là những người luôn khát khao một sự gì đó (mà không dám làm). Còn những người công chính là những người bắt tay làm ngay những sự phải làm, đáng làm, nên làm, hôm nay, lúc này.
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Tin Mừng của Chúa Nhật này một lần nữa tiếp tục nói với chúng ta qua dụ ngôn. Chúa Giêsu nói với các thượng tế và kỳ mục trong dân rằng: “Các ông nghĩ sao? Một người kia có hai con trai. Ông ta đến nói với người thứ nhất: ‘Này con, hôm nay con hãy đi làm vườn nho.’ Nó đáp: ‘Con không muốn đâu!’ Nhưng sau đó, nó hối hận, nên lại đi. Ông đến gặp người thứ hai, và cũng bảo như vậy. Nó đáp: ‘Thưa ngài, con đây!’ Nhưng rồi lại không đi. Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?’ Họ trả lời: ‘Người thứ nhất.” (Mt 21,28-31)
1- Giữa nói và làm là một biển cả
Người con nói “có làm” nhưng lại “không làm” đại diện cho những ai đã nhận biết Thiên Chúa và tuân giữ luật Người trong một số phạm vi, nhưng lại không chấp nhận Chúa Kitô, Đấng là “sự viên mãn của lề luật.”
Còn người con nói “không làm” nhưng lại “đi làm” đại diện cho những ai đã sống ngoài lề luật và thánh ý Thiên Chúa, nhưng sau đó, nhờ Chúa Kitô, họ đã hoán cải và trở lại đón nhận Tin Mừng.
Từ đó, Chúa Giêsu đưa ra kết luận này trước các kỳ mục và thượng tế: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31).
Như thế, trang Tin Mừng này nói gì với chúng ta hôm nay? Đối với Thiên Chúa, những lời nói suông hay những lời hứa hoa mỹ không có giá trị đáng kể, nếu không đi kèm với những việc làm cụ thể. Người ta thường nói rằng: “Giữa nói và làm là cả một biển cả.” Chúa Giêsu cũng có lần nhắc nhở: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: “Lạy Chúa! lạy Chúa! ” là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21).
Dụ ngôn của Chúa Giêsu rất gần gũi với cuộc sống như chúng ta thấy hôm nay. Điều mà Thiên Chúa chờ đợi nơi chúng ta chính là điều mà cả chúng ta cũng chờ đợi nơi những người khác trong cuộc sống. Chẳng hạn, điều mà mỗi cha mẹ chờ đợi từ con cái mình là một sự vâng lời đích thực, chứ không phải chỉ là lời nói suông, hay hứa hảo; một lời nói hay một tình cảm phải được chứng tỏ bằng những hành động cụ thể và cả sự hy sinh, nếu không sẽ không có giá trị hay hiệu quả gì mấy.
Sự bất nhất giữa “nói và làm” tạo cho người ta cảm giác người Kitô hữu rất đáng ghét, đó là khoảng cách giữa điều chúng ta tuyên xưng trong nhà thờ và điều chúng ta hành xử, khi sống ở ngoài đời, nơi gia đình, công sở, hay nơi chợ búa… Nghĩa là giữa đời sống đạo đức trong nhà thờ và đời sống thường nhật không có một sự ăn nhập gì nhau, nếu không muốn nói là hoàn toàn khác biệt. Vào nhà thờ thì “đọc hết kinh này sang kinh khác,” chắp tay bái lạy “khu cao hơn trốc,” nhưng bước ra ngoài nhà thờ thì mặt hằm hằm sát khí, muốn ăn tươi nuốt sống người khác hay nhìn họ với những “ánh mắt dao găm!” Vào nhà thờ thì nói “có,” nhưng ra khỏi nhà thờ thì nói “không.” Người ta bảo: “Lời nói lung lay, gương lành lôi kéo.” Hay ngạn ngữ có câu: “Những hành động thì có âm vang hơn là những lời nói.” Người ta đánh giá chúng ta một cách chính xác dựa trên những gì chúng ta làm hơn là những gì chúng ta nói. Về điểm này, thánh tử đạo Ignatiô thành Antiochia cho rằng: “Những người Kitô hữu không nói thì tốt hơn những Kitô hữu nói mà không làm.”
Tuy nhiên, chúng ta cũng phải cẩn thận bởi những lý luận trên có thể bị hiểu lầm hay bị lạm dụng. Đã có những người vì lười biếng không muốn đến nhà thờ tham dự thánh lễ, nên cứ ngụy biện cho rằng: “Đạo tại tâm.” Cũng có những người lý luận rằng: “Ồ, những người hay đi nhà thờ, chăm đọc kinh cầu nguyện đâu có phải là những người tốt trong cộng đoàn đó sao?” Với những ý tưởng cố hữu như thế, họ biện hộ cho việc bỏ lễ và bỏ cầu nguyện. Nếu trong gia đình, người vợ tiếp tục đi nhà thờ, thì phải chịu đựng và im lặng vì những lời mỉa mai như thế. Họ không biết rằng những người cầu nguyện và cố gắng sống Tin Mừng cũng là những con người bất toàn, luôn có những giới hạn và thiếu sót. Điều chắc chắn là mỗi người phải trả lẽ với Thiên Chúa và với lương tâm của mình về điều họ phải làm và không làm cho người khác.
2- Tránh những hiểu lầm
Nhưng để giải thích nội dung chính của dụ ngôn, chúng ta cần quay lại với câu kết luận lạ lùng này của Chúa Giêsu: “Tôi bảo thật các ông: những người thu thế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21,31).
Có thể nói đây là một trong những lời của Chúa gây hiểu lầm hơn cả. Trong lịch sử đã có những con người dùng câu nói này để lý tưởng hóa hay “hợp thức hóa” nghề mãi dâm và biện hộ cho những cô gái điếm. Văn chương cũng có đầy những “cô gái điếm thánh thiện.” Đơn giản chỉ cần nghĩ tới tác phẩm La Traviata (Người Đàn bà sa ngã) của Giuseppe Verdi hoặc cô điếm Sonya hiền như ma xơ của Dostoevsky trong tác phẩm “Tội ác và Hình phạt.”
Đây là một sự hiểu lầm kinh khủng! Cần phân biệt rằng Chúa Giêsu đang nói về một trường hợp cụ thể, như đã xảy ra. Người quả quyết: “Những cô gái điếm vào Nước Trời trước các ông.” Chúa nói tới những “cô gái điếm” như một sự so sánh để nhấn mạnh đến sự nghiêm trọng của những ai cứng lòng từ chối chân lý. Ngoài ra, trong Tin Mừng, Chúa Giêsu còn nói đến trường hợp “những người thu thuế.” Họ là những người làm việc cho các trạm thu thuế của đế quốc La Mã và được coi là những người tham dự vào những bất công xã hội. Đó là hai tội công khai mà thời đó người Do Thái xếp ngang hàng với nhau và cần loại trừ. Nếu Chúa Giêsu xếp những cô gái điếm với những người thu thuế lại với nhau, Người có lý khi làm như thế. Vì cả hai loại người này đã kiếm tiền bằng việc làm bất lương, nhưng điều Chúa muốn nói ở đây là dầu họ xấu xa như thế nào, nhưng khi gặp gỡ Đức Giêsu, họ đã thay đổi đời sống của mình; Chúa muốn đề cao thái độ đón nhận sự thật và khả năng hoán cải, như một Maria Mađalêna, một Mátthêu, hay một Giakêu… Khác với những người cứ nghĩ mình thánh thiện và đạo đức, những đầu óc đầy thành kiến và bảo thủ, nên cứ ở lì trong lập luận riêng và chính kiến của mình. Những người này luôn có áo giáp tự vệ quá lớn, nên rất khó thay đổi như các Luật Sỹ và Biệt Phái.
Cũng cần thêm rằng, thế giới hôm nay mà chúng ta đang sống là thế giới bị thống trị bởi nền văn hóa tính dục. Trong đó, hiện tượng mãi dâm đang phổ biến dưới nhiều hình thức tinh vi, lan tràn và nguy hiểm. Có rất nhiều người phụ nữ và trẻ em bị bán làm nô lệ cho tình dục một cách có hệ thống và tinh vi hơn bao giờ hết. Sẽ là sai lầm khi cho rằng câu nói trên của Chúa Giêsu cổ xúy cho hiện tượng mãi dâm này. Quả vậy, nghề mãi dâm luôn được coi là nghề xấu xa, bất xứng trong xã hội dù thời nào. Nhưng Đức Giêsu luôn trung thành với nguyên tắc đạo đức: luôn nói “không” với tội lỗi, nhưng nói “có” với tội nhân. Theo đó, Người không chấp nhận hiện tượng mãi dâm và mời gọi người phụ nữ ngoại tình hoán cải: “Tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Người Kitô hữu phải là người giống Chúa Kitô về điểm này.
3- Luôn hy vọng để hoán cải
Như thế, khi kể dụ ngôn hai người con để ám chỉ về những người thu thuế và những cô gái điếm sẽ hoán cải nhờ lời giảng của Gioan Tẩy Giả; còn những kỳ mục và thượng tế thì không hoán cải, Chúa Giêsu muốn dạy chúng ta điều này: Một đàng, Chúa Giêsu muốn nhấn mạnh đến thái độ cứng đầu, bảo thủ, không chịu thay đổi của những người lãnh đạo tôn giáo Do Thái thời đó, họ là những người đại diện cho người con nói “có” nhưng lại “không chịu làm.” Họ là những người đại diện cho tất cả những ai hôm nay, dầu mang danh là Kitô hữu, nhưng chỉ ở trên danh nghĩa, không thực hành niềm tin, không sống niềm tin của mình.
Đàng khác, Lời Chúa hôm nay muốn đề cao những ai dầu trước đó lầm lỡ, yếu đuối, như người con đã “nói không” với Thiên Chúa, nhưng sau đó, họ đã hối hận, trở về và thay đổi cuộc sống.
Cả hai trường hợp là tấm gương để chúng ta soi bóng mình. Bởi lẽ, một cách chân thành và khiêm tốn, đã nhiều lần, chúng ta là người con “nói làm, nhưng không làm,” cho Chúa những gì Chúa muốn, trong đời sống chúng ta. Chúng ta hứa với Chúa nhưng không giữ lời, nói nhiều nhưng làm ít, nghe nhiều, nhưng không áp dụng vào cuộc sống. Có lẽ, cũng vì sự cứng lòng, bảo thủ và thành kiến làm tổ trong chúng ta, nên chúng ta đánh mất khả năng đón nhận điều mới mẻ, và khả năng thay đổi.
Và vì thế, chúng ta cần học nơi người con thứ hai ở chỗ biết hối hận, tiếp nhận và thay đổi đời sống, bằng việc làm theo những gì Chúa muốn, sống theo những gì Chúa dạy, đồng nhất giữa nói và làm là một.
Tin Mừng là tin vui, tin hy vọng, tin cứu độ cho tất cả mọi người, nhất là cho các tội nhân, kể cả những cô gái điếm. Chúng ta phải luôn biết hy vọng ơn cứu độ cho tất cả. Amen!
Lm. Xuân Hy Vọng
Đâu đó, chúng ta vẫn thường được nghe hoặc được gieo vào tâm trí câu nói (chắc không có chủ ý!): “nếu không đọc kinh, cầu nguyện…Chúa phạt!”. Từ thuở nhỏ, con trẻ mà hư, trái quấy, mẹ/bố thường nói câu này để con biết vâng lời! Bước vào nhà trẻ, mẫu giáo, con trẻ chơi với nhau có khi xô xát đánh nhau, bố/mẹ cũng dùng câu nói này để con đừng đánh bạn bè! Và cứ lớn dần, được học giáo lý, được học chữ ngoài trường lớp, ra đời, có sự nghiệp, lập gia đình, có con, trong lúc vô tình hay cố ý cũng có lúc dùng câu nói được nghe từ xưa “nếu không…, Chúa sẽ phạt!” cho chính con cái mình!
Đối với những ai có tính gia trưởng (luôn cho suy nghĩ, cách nhìn của bản thân đúng đắn và một cách nào đó áp đặt lên người khác) thì ‘đường lối của người khác’ dường như chỉ là thứ yếu, luôn đứng sau ‘đường lối của chính mình”. Tương tự như dân Is-ra-en thời tiên tri Ê-zê-ki-en, cũng luôn cho rằng: ‘Đường lối của Chúa không chính trực’. Và Thiên Chúa đã dùng miệng tiên tri này mà đối chất, răn dạy, chỉ ra lối suy nghĩ, cách sống không đúng đắn của họ: “Hỡi nhà Is-ra-en, hãy nghe đây: phải chăng đường lối của Ta không ngay thẳng, hay đường lối của các ngươi mới không ngay thẳng?” (x. Ez 18, 25). Cách thức Chúa làm, con đường Chúa đi, kế hoạch Chúa vạch ra chắc chắn khác biệt với chúng ta; nhưng nếu chúng ta không tin nhận những gì khởi sự từ Chúa và kết thúc nơi Người luôn chính trực, đúng đắn, và ích lợi cho chúng ta, thì vô hình chung tư tưởng ngàn xưa của dân Is-ra-en cũng đang tồn tại trong chúng ta vậy!
Hơn nữa, khi mắc sai lầm mà không kịp thời dừng lại, xem xét, sửa đổi thì ‘sai lầm này kéo theo lỗi lầm kia’ như cách lập luận thường thấy nơi chúng ta ‘Thiên Chúa xử phạt’. Ở đây, chúng ta sẽ biết được một lời giải đáp rõ ràng, không chút mơ hồ hay mông lung, qua lời quả quyết của ngôn sứ Ê-zê-ki-en “khi người công chính từ bỏ công chính mà làm điều bất chính, thì nó phải chết vì điều bất chính nó làm” (x. Ez 18, 26). Đúng thật, Thiên Chúa không sát phạt hay xử phạt! Những ai sống chính trực mà bỏ đàng công chính, làm điều ác, việc xấu xa, thì họ phải chết không phải vì Chúa trừng phạt hoặc ra án xử, mà vì điều bất chính họ làm mà thôi. Chúng ta phải chịu trách nhiệm, chịu hậu quả do hành động, hành xử, hành vi, đường lối, cách sống của chúng ta.
Lẽ dĩ nhiên, lỡ may chúng ta là những kẻ gian ác, xấu xa (trong tư tưởng, lời nói, cũng như hành động) từ bỏ điều dữ, bỏ đàng tội lỗi, bỏ thói ngạo mạn kiêu căng, mà thi hành điều chính trực công minh, theo đường lối của Chúa thì “sẽ cứu được mạng sống mình” (x. Ez 18, 27). Hơn nữa, một khi nhận ra, nhìn thấy và từ bỏ mọi điều phản nghịch đã phạm, thì “chắc chắn sẽ được sống, chứ không phải chết” (x. Ez 18, 28).
Theo đường lối của Chúa, điều này đúng đắn cho hết thảy địa vị, nghề nghiệp, ngôn ngữ, văn hoá. Nó sẽ không nghiêng về người có thẩm quyền, có học thức, có chức tước, vị vọng…mà lại rời xa những kẻ thấp hèn, vô học, dân thường cùng đinh, thấp cổ bé miệng và bị loại ra ngoài xã hội (như người tội lỗi, người thu thuế, gái điếm…) như lời Đức Giê-su khẳng định với các thượng tế và kỳ lão trong dân, cũng như mỗi người chúng ta ngày nay rằng: “Tôi bảo thật các ông, những người thu thuế và gái điếm sẽ vào nước Thiên Chúa trước các ông” (Mt 21, 31). Nếu xét theo cách thức của con người, thì sự việc này không thể nào, đúng hơn là không bao giờ xảy ra được. Tuy nhiên, nếu nhìn theo đường lối của Thiên Chúa, thì điều chúng ta tưởng không, lại thành hiện thực một cách không tưởng! Vì sao như vậy? Câu trả lời ngay sau khi lời tuyên bố trên của Đức Giê-su: “Vì ông Gio-an đã đến chỉ đường công chính cho các ông, mà các ông không tin ông ấy; còn những người thu thuế và những cô gái điếm lại tin. Phần các ông, khi đã thấy vậy rồi, các ông vẫn không chịu hối hận mà tin ông ấy” (Mt 21, 32). Sự hoán cải liên lỉ, hành vì xét mình hằng ngày giúp chúng ta tin tưởng đón nhận đường lối của Chúa. Ngược lại, khi tin tưởng chấp nhận đường lối của Chúa, thì chính Chúa hoán cải con người chúng ta, biến đổi con đường dị biệt của ta, dẫn ta vào quỹ đạo tình thương, nói như Thánh Phao-lô tông đồ trong thư gửi cho giáo đoàn Phi-líp-phê “…liên kết với Đức Ki-tô đem lại cho chúng ta một niềm an ủi, tình bác ái khích lệ chúng ta hiệp thông trong Thần Khí, và sống thân tình, biết cảm thương nhau” (x. Pl 2, 1).
Một khi nhận biết, đón nhận, tin tưởng và bước theo đường lối của Chúa, thì những gì Thánh Phao-lô nhắc nhở, nhắn gửi, răn dạy trong bài đọc II phải được suy tư một cách nghiêm túc, rồi thực hành với cả con tim và khắc ghi suốt cuộc hành trình đức tin trên dương thế này: “đừng làm chỉ vì ganh tị hay vì hư danh, nhưng hãy lấy lòng khiêm nhường mà coi người khác hơn mình. Mỗi người đừng tìm lợi ích cho riêng mình, nhưng hãy tìm lợi ích cho người khác. Anh em hãy cảm nghĩ trong anh em điều đã có trong Đức Ki-tô Giê-su” (Pl 2, 3-5). Giữa chúng ta với nhau, chúng ta hãy mặc lấy tâm tình như chính Đức Giê-su Ki-tô, cụ thể: “Người vốn dĩ là Thiên Chúa, nhưng không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà mặc lấy thân phận tôi đòi, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người đã tự hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự…” (Pl 2, 6-8)
Đường lối Chúa chính lộ ngàn đời
Đường lối con chơi vơi khắp chốn.
Đường lối Ngài mãi vuôn tròn
Suốt cuộc đời này bước trọn tin yêu. Amen!