CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN – A
Lời Chúa: Kn. 6, 12-16; 1Tx. 4, 13-18; Mt. 25, 1-13
—————————-
-
Khôn – Dại (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
-
Năm Cô Trinh Nữ Khôn Ngoan (Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
-
Khôn ngoan tỉnh thức (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
-
Năm cô khờ dại (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
-
Tìm gặp Thiên Chúa (Jorathe Nắng Tím)
-
Giọt dầu yêu thương (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
-
Bạn chuẩn bị những gì? (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
-
Để sẵn sàng (Thiên San, T MTG.Thủ Đức)
-
Cảnh giác (Lm. Vũ Đình Tường)
-
Khôn và khờ. (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
-
Đời khôn, đời dại (Trầm Thiên Thu)
-
Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 32 TN_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
-
Khôn ngoan của ta đây (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
-
Đèn đầy dầu cháy sáng (Lm. Xuân Hy Vọng)
-
Để cho tâm hồn tỏa sáng (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
-
Sự chọn lựa “Về Đích” khôn ngoan (Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
-
Sửa soạn đèn dầu tâm hồn (Lm. Trần Bình Trọng)
-
Sống khôn để chết thiêng (Lm. Nguyễn Minh Hùng)
-
Người khôn ngoan (Lm. Antôn Phạm Trọng Quang, SVD)
-
Như các trinh nữ đi đón Chúa (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
-
Dự liệu, phó thác và tỉnh thức (An Phong)
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Trong ngôn ngữ đời thường, khôn và dại là hai tính từ chỉ hai tình trạng đối lập nhau. Tuy vậy, để kết luận một người nào đó khôn hay dại lại không dễ dàng chút nào. Một người buổi sáng khôn ngoan với hành vi thận trọng, bỗng buổi chiều trở thành dại khờ vì có phát ngôn không tốt. Khôn dại cũng được nhận định theo cảm nhận chủ quan của mỗi người. Ranh giới giữa khôn và dại thật mỏng manh, lượng giá xem dại hay khôn thật khó đoán. Vì thế mà cổ nhân dạy: “Khôn ba năm dại một giờ”. Một hành vi sai trái có thể làm cho người khôn nên dại; một cử chỉ khôn ngoan có thể biến người dại nên khôn. Một phút dại khờ có thể làm một người khuynh gia bại sản, một giây khôn ngoan có thể làm cho một người trở nên phú quý cao sang.
Sự khôn ngoan được nói tới trong Phụng vụ hôm nay hoàn toàn khác với quan niệm thông thường. Trước hết, Bài đọc I nói với chúng ta về Đức Khôn Ngoan (Lưu ý chữ viết hoa). Đức Khôn Ngoan được trình bày như một con người, một Đấng đang hiện hữu giữa chúng ta. “Ai tìm Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan cho gặp… Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà”.
Dưới ánh sáng của mạc khải Kitô giáo, chúng ta nhận ra Đức Khôn Ngoan được diễn tả trong Cựu Ước chính là Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể. Nơi Đức Giêsu, Đức Khôn Ngoan của Cựu Ước đã được “ngôi vị hóa”. Qua mầu nhiệm Nhập thể, Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận con người để đến gặp gỡ thân thiện với con người trần gian. Những ai nghe Đức Giêsu giảng dạy đều thán phục và trầm trồ khen ngợi, “vì người giảng dạy như một Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc 1,22). Bằng cuộc sống và giáo huấn của Người, Đức Giêsu dạy cho con người thay đổi quan niệm về khôn – dại. Người khôn ngoan không chỉ là người có “chỉ số IQ” cao như ngày nay người ta thường nhận định, nhưng là người biết sống vì tha nhân, biết quan tâm đến những người xung quanh mình. Chúng ta hãy đón nhận giáo huấn của Chúa. Hãy để Lời Chúa thanh luyện để chúng ta đạt được sự khôn ngoan đích thực.
Cuộc sống người Kitô hữu chính là hành trình tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, tức là tìm kiếm Đức Kitô. Lịch sử đã chứng minh: ai gặp được Đức Kitô thì tìm được hạnh phúc. Biết bao người nam cũng như nữ suốt bề dày lịch sử đã can đảm chọn Chúa là gia nghiệp duy nhất và chấp nhận mất tất cả để đánh đổi lấy sự Khôn Ngoan. Họ là những vị thánh, được tôn vinh vì sự chọn lựa cao cả tuyệt vời ấy. Hôm nay, Đức Khôn Ngoan vẫn đang hiện diện giữa chúng ta để đồng hành với chúng ta trong hành trình kiếp người. Ai thành tâm thiện chí tìm kiếm thì sẽ gặp được Người.
Làm thế nào để gặp Đức Khôn Ngoan trong cuộc đời? Chúa Giêsu kể cho chúng ta nghe câu chuyện dụ ngôn về mười cô trinh nữ đi đón chàng rể theo phong tục tập quán của người Do Thái. Năm cô trinh nữ mang đèn mà không đem theo dầu bị kết án là những người dại dột. Các cô sống mà không có định hướng cho tương lai. Các cô chỉ a dua theo người ta đến đám cưới. Quan niệm về cuộc sống của các cô chỉ mang tính nhất thời, thiếu sâu sắc. Các cô quá chú ý đến việc trang điểm và y phục bề ngoài, mà quên rằng chàng rể có thể đến sớm và cũng có thể đến muộn. Các cô cũng quên rằng việc mang theo đèn có dầu thắp sáng là một điều kiện để theo chàng rể vào phòng tiệc.
Như trên đã nói, khái niệm khôn – dại mà Phụng vụ đề cập hôm nay hoàn toàn không giống như cách suy nghĩ của người đời. Thánh Phaolô đã quảng diễn điều đó trong thư gửi giáo dân Côrinhtô: “Chúng tôi rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh trên thập giá, một cớ vấp phạm cho người Do-thái, một sự điên rồ đối với các người ngoại giáo. Nhưng đối với những người được gọi, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, thì Ngài là Chúa Kitô, quyền năng của Thiên Chúa, và sự khôn ngoan của Thiên Chúa, vì sự điên dại của Thiên Chúa thì vượt hẳn sự khôn ngoan của loài người, và sự yếu đuối của Thiên Chúa thì vượt hẳn sức mạnh của loài người” (1Cr 1,23-25). Theo quan niệm của người đời, người khôn là người biết làm lợi cho bản thân; trong quan niệm của Thánh Kinh, người khôn là người biết hy sinh cho kẻ khác. Cũng một sự kiện Đức Giêsu chịu treo trên thập giá, Người có đức tin nhận ra tình thương bao la của Thiên Chúa; người vô tín chỉ thấy thất bại nhục nhã và khổ đau.
Trong cánh đồng cuộc đời, cỏ lùng và lúa cùng mọc lên. Trong cuộc sống nhân sinh, người khôn và kẻ dại cùng hiện hữu. Người dại thường phải chấp nhận một số phận hẩm hiu, thua thiệt; người khôn lại mang số phận phú quý cao sang. Người Công giáo tin rằng với nỗ lực cố gắng của bản thân và với ơn phù trợ của Chúa, người ta có thể trở thành người khôn ngoan thực sự, nhờ lòng mến Chúa yêu người.
Khôn ngoan và dại dột không chỉ là hai hạng người hiện hữu trong cuộc sống, nhưng đó còn là hai thái cực đồng thời tồn tại trong cùng một con người. Nơi mỗi người luôn có sự khôn ngoan, nhưng đồng thời cũng vẫn còn sự dại dột, vì thế mà chúng ta phải thận trọng trong ngôn từ cũng như trong hành động, nhờ đó mà chúng ta trở nên người khôn ngoan, loạn trừ dần sự dại dột đang tồn tại trong chính chúng ta.
Chúng ta vừa long trọng mừng lễ Các Thánh. Chúng ta cũng đang cầu nguyện cho các linh hồn nơi luyện ngục trong suốt tháng 11 này. Cuộc đời của các thánh giúp chúng ta suy nghĩ về sự khôn ngoan đích thực, giống như năm cô khôn ngoan trang bị đủ dầu. Số phận các linh hồn nơi luyện ngục lại nhắc ta phải tỉnh thức, để tránh rơi vào tình trạng bi thảm của năm cô khờ dại vì thiếu dầu. Dừng chân bên nấm mộ, chúng ta cảm nhận rõ hơn sự mong manh của phận người. Suy tư về sự chết, chúng ta nhận ra đâu mới là những giá trị tồn tại vĩnh viễn, giúp chúng ta đạt được sự sống đời đời. Như vậy, khôn ngoan hay dại khờ là do chính chúng ta chọn lấy cho mình.
Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần XXXII Thường Niên, Năm A này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta xin Chúa đẩy xa những gì cản bước tiến chúng ta, trên đường về với Chúa, để một khi xác hồn thanh thản, chúng ta được hoàn toàn tự do thực hiện ý Chúa.
Trên đường về với Chúa, chúng ta thường xuyên bị cản bước tiến, do bởi sự ngu dại của chính mình. Điều mà thế gian cho là khôn ngoan, thì lại là ngu dại đối với Thiên Chúa, ngược lại, khôn ngoan của Thập Giá, thì lại là ngu dại và điên rồ đối với thế gian. Khôn ngoan của thế gian sẽ làm cho chúng ta bị trói buộc, mất tự do; Khôn ngoan của Thập Giá sẽ làm cho chúng ta được thanh thản, hoàn toàn tự do để thực hiện ý Chúa.
Đức khôn ngoan rất cần thiết cho chúng ta trong việc tuân giữ những gì Chúa dạy. Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, nhờ ơn khôn ngoan Chúa ban, mà Đanien và các bạn vẫn giữ được Luật Chúa, không ăn những đồ ô uế, ngay tại triều đình vua ngoại đạo: Họ được Chúa ban ơn hiểu nhiều, biết rộng, về tất cả chữ nghĩa, và lẽ khôn ngoan. Chúa cho lòng họ đầy tràn ơn thông hiểu. Khi vua hỏi họ: về bất cứ điều gì, cần đến sự khôn ngoan và tài trí, vua đều được toại lòng. Bài đọc một của Thánh Lễ, được trích từ sách Khôn Ngoan, chỉ với vỏn vẹn 5 câu, mà cụm từ “Đức Khôn Ngoan” được lặp đi lặp lại đến 14 lần: Ai tìm kiếm, khao khát Đức Khôn Ngoan, thì Đức Khôn Ngoan sẽ cho gặp.
Bài đọc hai của giờ Kinh Sách cho thấy: Do trí khôn mù tối, chúng ta đã tôn thờ gỗ đá, vàng bạc và đồng là những thứ do con người làm ra, và suốt đời, chúng ta sống mà cũng chỉ như đã chết. Chúng ta bị bóng tối bủa vây và chỉ còn nhìn thấy đêm đen dày đặc. Tuy nhiên, Thiên giàu lòng từ bi, Người không để chúng ta chết trong sự ngu muội của mình, cho nên, Thiên Chúa đã không định cho chúng ta phải chịu cơn thịnh nộ, nhưng được hưởng ơn cứu độ, nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã chết vì chúng ta, để chúng ta được cùng sống với Người. Người đã giải thoát chúng ta khỏi quyền lực tối tăm và đưa vào vương quốc Thánh Tử chí ái.
Trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 62, vịnh gia đã diễn tả sự khôn ngoan của mình qua niềm khao khát Thiên Chúa: Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. Câu Tung Hô Tin Mừng mà các nhà phụng đã chọn cho ngày lễ hôm nay cho thấy: sự khôn ngoan được diễn tả qua việc tỉnh thức và sẵn sàng: Anh em hãy canh thức và hãy sẵn sàng, vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến.
Bài Tin Mừng cho thấy năm cô khôn ngoan đã mang đèn và mang theo cả chai dầu. Có lẽ, năm cô khôn này cũng đã bị năm cô dại cười nhạo: rườm rà, phiền phức, mất công. Trước khi chàng rể đến, cả mười cô đều như nhau, cũng ngủ cả, nhưng, khi chàng rể đến, thì đã có một sự khác biệt rất lớn, giữa những cô khôn và những cô dại. Tình yêu sẽ làm phát sinh những sáng kiến. Khôn ngoan là ở chỗ đó. Do đó, thánh Autinh nói: Yêu đi, rồi muốn làm gì thì làm. Tình yêu đích thực, thì không bao giờ sai lầm. Thiên Chúa là tình yêu, cho nên, Người không bao giờ sai lầm. Người luôn có những sáng kiến để yêu chiều chúng ta. Sáng kiến vĩ đại của Người chính là sự khôn ngoan của Thập Giá, điều mà thế gian coi là ô nhục, và điên rồ. Niềm khao khát đón gặp chàng rể, khiến các cô khôn chuẩn bị thêm cả chai dầu: dù có phiền phức, vất vả, khó chịu một chút, nhưng, lại là sáng kiến khôn ngoan của tình yêu. Tình yêu đáp đền tình yêu, ân tình đền đáp ân tình. Ước gì chúng ta biết khước từ sự khôn ngoan của thế gian, để trở nên ngu dại, và điên rồ vì Đức Kitô, hầu chúng ta luôn biết tỉnh thức và sẵn sàng với một tình yêu tự do thực thi ý Chúa, để rồi, chúng ta được thong dong cùng Chúa tiến vào Tiệc Cưới.
Lm.Jos Tạ Duy Tuyền
Tháng 10 năm 2020 có lẽ là tháng ngập tràn đau thương nơi Miền Trung. Mưa lũ đã cuốn trôi và chôn vùi hơn 100 nạn nhân và chôn vùi cả một ngôi làng. Đặc biệt là 22 quân nhân bị chôn vùi ở Hướng Phùng- Quảng Trị, có những người còn rất trẻ, họ ra đi khi tuổi đời chỉ mới đôi mươi. Họ chẳng có vợ con đến đưa tiễn, nhưng nước mắt của những người mẹ thật sự khó diễn tả bằng lời.
Theo báo mới: người mẹ Nghệ An ngồi trong lán trại dã chiến, bà Quyên nói như vô thức rằng con bà cao lớn vừa tròn 20 tuổi. Mấy hôm trước có điện về nhà nói với mẹ vài tháng nữa sẽ ra quân. “Hắn hứa với tôi là ra quân dư 21 triệu đồng sẽ cho mẹ mua tôn lợp lại mái nhà. Hứa mà không giữ lời với mẹ hả con!” –
Và một người cha ở Hà tĩnh có con trai đi bộ đội đã chết bởi lũ ở Quảng Trị nói trong nước mắt: “Chỉ còn mấy tháng nữa là nó ra quân. Ngày nhập ngũ nó hứa với bố mẹ sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự sẽ tiếp tục học đàn để ổn định rồi lập nghiệp, hứa đưa mẹ đi Hà Nội chữa bệnh.
Một người chết đi có liên hệ tới biết bao nhiêu chuyện. Sẽ là bài học về cách sống và cách làm người. Con người sẽ rút ra bài học “có sinh thì có tử”, nhưng chết rồi sẽ về đâu? Phải sống ra sao để khi lìa đời còn có người thân đưa tiễn?
Qua trận lũ lịch sử tại miền Trung với hơn 100 cái chết bất đắc kỳ tử và hàng trăm ngàn ngôi nhà chìm trong nước, cho ta thấy kiếp người thật mong manh. Con người có thể nắm bắt mọi thứ nhưng không nắm được phận số ngắn dài của mình. 13 sĩ quan cao cấp của quân đội bị lũ cuốn tại Rào Trăng 3, 22 quân nhân chôn vùi tại Hướng Phùng, và nhiều người chết thuộc đủ mọi thành phần già trẻ, giầu nghèo đều cũng ra đi trong lúc mình không ngờ và có lẽ cũng chưa chuẩn bị hành trang ra đi.
Nghĩ về kiếp người mong manh. Tin vào sự sống đời sau. Cha ông ta đã lưu truyền cho con cháu những lời khuyên dạy thật hữu ích như câu ca dao:
Người trồng cây hạnh người chơi
Ta trồng cây đức để đời về sau.
Hôm nay Chúa Giê-su đã so sánh nước Trời giống như “những cô khờ dại mang đèn mà không mang dầu theo; còn những cô khôn ngoan thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo.” (Mt 25:3-4). Có thể những cô khờ dại này lại cứ tưởng mình khôn lắm, chỉ lo trưng diện thân xác hay ăn chơi bên ngoài mà quên mất tích trữ chất liệu cho hồn bên trong. Khi biết mình hết dầu, họ đã lo vay mượn. Nhưng“đèn nhà ai người ấy sáng”. Ánh sáng của niềm tin, của tình yêu thì không thể vay mượn được. Nên cánh cửa đời sau đã khép lại với những người không đủ đèn sáng trong cuộc đời.
Bài phúc âm hôm nay như nhắc nhở thái độ cần có nơi người ky-tô hữu chúng ta. Mang danh là Kitô hữu. Không đủ! Tham gia vào một số sinh hoạt tôn giáo. Không đủ! Cần phải sống hết mình những đòi hỏi của Chúa. Đòi hỏi lớn nhất là yêu thương. Yêu thương thì không có điểm dừng. Yêu thương thì luôn mãi. Yêu thương càng không có ranh giới. Yêu thương mọi người và mọi nơi. Khi chúng ta yêu thương là chúng ta đang thêm dầu vào cuộc đời để thắp sáng tình yêu cho thế gian. Nếu cuộc đời chúng ta không còn yêu thương thì lúc đó ánh đèn cuộc đời ta đã bị dập tắt và chắc chắn không còn đủ ánh sáng đi đón Chúa.
Cuộc đời sẽ kết thúc. Kết thúc lại bất ngờ. Không ai biết giờ chết của mình. Chẳng ai biết hôm nay Chúa hẹn mình ở đâu, trong biến cố nào, nơi con người nào. Chính vì thế phải tỉnh thức luôn, cả trong giấc ngủ.
Xin Chúa giúp cho chúng ta đừng bao giờ để mình bị ngụp lặn trong tội lỗi, nhưng luôn sống có mục đích, biết phấn đấu vươn lên không ngừng, biết tránh xa tội lỗi và chu toàn bổn phận của mình. Nhờ vậy, chúng ta mới là những trinh nữ khôn ngoan xứng đáng tham dự tiệc vui thiên quốc. Amen.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Có thực sự là khờ dại không? Vẫn là câu hỏi lớn trong cuộc đời này! Người ta vẫn thấy sự giả trá, lấy cắp lên ngôi. Người ta vẫn thấy những người lương thiện đều chịu nhiều đau khổ, thử thách, gian nan, khi sống với nhiều người bất chính?. Ta hãy đi tìm hiểu từ Lời Chúa.
Năm cô khờ dại, thật ra không khờ dại: “Con cái đời này, khi đối xử với đồng loại, thì khôn khéo hơn con cái sự sáng”. (Lc 16, 8)
Đúng là như vậy! vào những thời gian khi viết Tin Mừng này trong xã hội, thánh Luca đang sống. Người giàu có thể thuê mướn người quản lý cho tài sản của mình, dĩ nhiên người này có những tài năng nhưng chưa chắc đã là chân chính. Người quản lý vừa nắm giữ sổ sách, vừa lên kế hoạch kinh doanh, vừa có thể chi tiêu, miễn sao có tiền thêm cho chủ là được. Người quản lý có rất nhiều kinh nghiệm về tài chánh, bất chính thật dễ dàng, bớt xén phần cho mình ngoài số tiền được chia. Người quản lý cũng có nhiều mối làm ăn, cho vay, cho mượn, quen biết hoặc có nhiều kênh làm ăn mờ ám khác, ông chủ đâu có hay.
Các cô khờ dại, dụ ngôn nói tới chỉ khờ dại vì đang bán đời mình đời sau để mong sao kiếm lợi tức từ đời này thôi. Đâu cần nghĩ tới đời sau, cầm đèn, mang dầu làm gì? Chỉ nghĩ tới mình đang sống, ăn ngon, ngủ yên, có nhiều tiền bạc ăn chơi, du lịch hạng sang. Chẳng cần đợi chủ về, lúc nào về lúc đó hay. Không có dầu, dùng tiền mua lại dầu của năm cô trinh nữ khôn ngoan kia. Các cô khôn ngoan đời sau, dại đời này, dễ mua chuộc hoặc là dẻo miệng xin là có thôi. Không được thì đánh cắp.
Vào tuần này chúng ta thấy vấn đề bầu cử tại Hoa Kỳ. Phe cánh tả đâu cần đi vận động chi nhiều. Tới đâu vận động cũng chỉ vài trăm người, lâu lâu còn bị nghe la ó. Nằm nhà, có mấy nhóm hậu sự kia lo. Họ có nhiều phương cách để chiếm lấy phiếu bầu bằng nhiều gian lận. Con cái đời này lắm trò, nhiều chiêu để thắng cuộc bầu cử. Chẳng phải lo vận động dân chúng làm gì nhiều. Có nhiều tiền là có thể làm được hết mọi sự “Cái gì không mua được bằng tiền, sẽ mua được bằng nhiều tiền”. Con cái đời này khôn ngoan hơn con cái sự sáng.
“Người công chính gặp nhiều nỗi gian truân, nhưng Chúa giúp họ luôn thoát khỏi” (Tv 34, 20). Trước tiên được Chúa giải thoát, người công chính luôn chịu nhiều thử thách. Những thử thách lắm khi làm nản lòng người công chính, ngay thẳng. Lúc nào cũng cần sự khôn ngoan Chúa ban, đề phòng những mưu chước kẻ dữ giăng bẫy, chơi xấu, gian lận tư bề.
Sự dữ không bao giờ ở một mình, chúng thường liên kết với nhau một cách chặt chẽ, tìm mưu hại người lành. Chúa Giêsu bị nộp cho người đời, đến tòa án Philatô, rồi chuyển qua tòa án Hêrôđê, từ đó Philatô và Hêrôđê kết thân với nhau (Xem Lc 23, 8 – 12). Người công chính, ngay lành đôi khi bị dụ dỗ hay chia rẽ nhau. Đó là nguyên cớ làm cho những người công chính, ngay lành thường hay chịu đơn độc, chỉ một số ít người tiến lên cùng nhau. Chúa nói qua lời ngôn sứ Isaia, số còn lại là con số quan trọng để chiến thắng: “Số sót sẽ trở lại – số sót của Yacob – với Thiên Chúa anh dũng. Vì dẫu dân ngươi như cát biển, hỡi Israel, trong chúng cũng chỉ có một số sót sẽ trở lại, án tận tuyệt đã định tràn lụt công minh. Quả vậy án tận tuyệt, điều đã phân định, Ðức Chúa Yavê các cơ binh đang thi hành ở giữa toàn cõi đất.” (Isaia 10, 21 -23).
Tin tưởng vào Thiên Chúa là niềm tin của người công chính ngay lành, họ chiến đấu với mưu chước thù, Thiên Chúa là Đấng ở với họ, là khiên che, thuẫn đỡ họ: “Vì Chúa hằng che chở nẻo đường người công chính, còn đường lối ác nhân đưa tới chỗ diệt vong.” (Tv 1, 6)
Chúng ta cần liên kết với Chúa như năm cô khôn ngoan trong Tin Mừng, dầu đèn cháy sáng trong tình yêu với Chúa, liên kết với anh chị em của mình, đối diện với sự dữ, gian dối, mưu chước kẻ thù.
“Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ là thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr 5,8).
Jorathe Nắng Tím
Chúng ta vừa mừng lễ các Thánh Nam Nữ, và cầu nguyện đặc biệt cho các linh hồn. Các bài đọc của Chúa Nhật hôm nay còn ở trong bầu khí của hai ngày lễ lớn Giáo Hội vừa mừng, khi đề cập đến chính cái chết, và mầu nhiệm của đời sống mới, nhờ sự chết và sống lại của Đức Giêsu.
Bài đọc thứ nhất trích từ thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn Têxalônica, được coi là bản văn cổ nhất của Kitô giáo là câu trả lời của thánh nhân, cũng là của Giáo Hội về vấn đề những người đã chết : “Thưa anh em, về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu” (1 Tx 4,13-14).
Nhưng “những người đã an giấc trong Đức Giêsu” để “được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu” là ai?
Thưa là những người khôn ngoan, những người có đức khôn ngoan, vì đức khôn ngoan “bảo đảm được trường sinh bất tử. Truờng sinh bất tử cho ta được ở bên Thiên Chúa” (Kn 6,18-19).
Chân lý này được Đức Giêsu khẳng định trong dụ ngôn “Mười trinh nữ”. Trong số mười cô, có năm cô khờ dại “mang đèn mà không mang dầu theo. Còn những cô khôn ngoan “thì vừa mang đèn vừa mang chai dầu theo” (Mt 25,2-5). Vì chàng rể đến muộn, “nên các cô thiếp đi, rồi ngủ cả”. Đến khi chàng rể đến, thì các cô khờ dại tất tả đi mua dầu, nhưng không ai chờ ai, nên chỉ năm cô khôn ngoan có đèn đốt sáng trong tay “được theo chàng rể vào dự tiệc cưới” (x. Mt 5-10).
Nghe dụ ngôn, chắc hẳn chúng ta không khỏi ngạc nhiên trước sự khờ dại của những cô mang đèn mà không mang dầu. Nhưng rất tiếc, đó là sự khờ dại của chính chúng ta trong đời sống thiêng liêng.
Chúng ta khờ dại vì thiếu khôn ngoan khi nghĩ rằng mình bất tử, và sẽ không bao giờ có ngày phải rời bỏ cuộc đời này ; chúng ta khờ dại khi thả trôi thời gian cách vô ích mà không chuẩn bị hành trang cho chuyến đi vào đời đời ; chúng ta khờ dại khi tưởng mình biết hết mọi sự và làm chủ mọi hoàn cảnh, tình huống để rồi đến giờ Chúa gọi phải ra đi lại cuống quýt thất thần, vì chưa sẵn sàng ; chúng ta khờ dại khi sống như người không thuộc về Chúa, không cần đến Chúa, không tương quan với Chúa, để khi hữu sự, chính chúng ta sẽ tự nghi nan, tuyệt vọng vì không quen bám víu, cậy trông vào Chúa, Đấng Cứu Độ duy nhất.
Thực vậy, Đức Giêsu trong Tin Mừng hôm nay cảnh báo chúng ta phải khôn ngoan, không được khờ dại, bởi khờ dại sẽ không được gặp Ngài khi Ngài đến, khờ dại sẽ lỡ chuyến đò cùng Ngài xuôi dòng Hạnh Phúc, khờ dại sẽ mất cơ hội đi với Ngài vào Nước vinh quang của Ngài.
Đức Giêsu cảnh báo nhưng không đe dọa, làm sợ, mặc dù hậu qủa dành cho những cô trinh nữ khờ dại sẽ là câu trả lời không mấy dễ nghe của chàng rể : “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!” (Mt 25,12). Ngài chỉ nhắc nhở chúng ta phải khôn ngoan chuẩn bị hành trang cần thiết cho buổi gặp gỡ đời đời với Thiên Chúa, khi giờ chết đến.
Chuẩn bị hành trang bằng trái tim khao khát tìm kiếm Thiên Chúa, bằng tâm hồn khiêm tốn phụng sự Chúa và phục vụ anh em, bằng cõi lòng luôn mở rộng để đón nhận ơn thương xót của Chúa và sự tha thứ của anh em.
Hành trang là “đèn đầy dầu luôn được thắp sáng” trong suốt hành trình dương thế. Đó chính là Đức Tin được biểu hiện sống động qua đời sống Cầu Nguyện và Bí Tích ; là Đức Tin được nuôi lớn mỗi ngày bằng việc làm thiết thực của Đức Ái ; là tình yêu quên mình được thể hiện qua đời sống khiêm hạ phục vụ.
Và trên tất cả, cũng là khởi điểm của hành trình đi gặp Chúa là lòng khát khao Thiên Chúa, khát khao được hoàn toàn thuộc về Chúa như lời thánh vịnh 62:
“Lậy Thiên Chúa là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước… Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ, suốt năm canh thầm thĩ với Ngài. Qủa thật, Ngài đã thương trợ giúp, nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui” (Tv 62,2.7-8).
Bông hồng nhỏ
Trong cuộc sống, có nhiều tình huống xảy đến bất ngờ khiến cho ta không trở tay kịp, chỉ vì ta đã không có sự chuẩn bị trước. Cũng vậy, khi tình yêu Chúa trong ta không đủ mãnh liệt, ta cảm thấy thật khó để có thể yêu thương những người bên cạnh ta, thật khó hơn nữa khi phải yêu thương người đã làm ta tổn thương. Chúa đến bất ngờ lắm! Nếu đang khi ta còn giận một người, chưa tha thứ cho ai kia, bất ngờ Chúa gọi ta về, ta phải làm sao? Ta không sẵn sàng, vì thế ta sợ hãi.
Hôm nay, Chúa Giêsu kể cho ta nghe về dụ ngôn mười trinh nữ cầm đèn đi tiếp đón chàng rể: năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Chú rể đến chậm và tất cả đều ngủ thiếp đi. Cả mười cô trinh nữ đều gặp phải những thử thách giống nhau. Họ đều phải kiên nhẫn chờ đợi trong đêm khuya. Tất cả đều quá mỏi mệt và họ đã ngủ thiếp đi trong lúc chờ đợi. Bất ngờ, nửa đêm có tiếng hô lớn: “Chú rể kia rồi, ra đón đi!” (Mt 25, 6). Họ bừng tỉnh, vội vàng sửa soạn đèn dầu để ra đón chàng rể. Thế nhưng chỉ có năm cô khôn ngoan có dầu để thắp sáng. Năm cô khờ dại không mang sẵn dầu theo và họ đã phải ra hàng quán để mua. Đang khi họ đi mua thì chàng rể tới. Chỉ có năm cô khôn ngoan được vào dự tiệc, năm cô khờ dại chẳng được vào dự tiệc cưới. Ta là ai trong mười cô trinh nữ ấy?
Mỗi ngày, Lời Chúa vẫn hối thúc trong tâm hồn ta: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Lòng ta vẫn âm vang một lời mời gọi thật đẹp. Trái tim ta có sẵn sàng mở ra để cho Thánh Thần tình yêu thiêu đốt tất cả những giận hờn, ghen ghét, đố kỵ là những đứa con đẻ của sự kiêu ngạo không? Năm cô khờ dại cũng khao khát vinh dự được đón chàng rể, được vào dự tiệc cưới như năm cô khôn ngoan. Họ cũng đã phải chờ đợi, cũng đã ngủ thiếp đi trong sự mỏi mệt như năm cô khôn ngoan. Tại sao họ không được vào dự tiệc cưới? Vì, họ đã không mang dầu dự phòng. Chàng rể đến chậm là một tình huống bất ngờ, không dự đoán trước được. Dầu đã có sẵn trong đèn sẽ vơi cạn theo thời gian. Bởi đó, cần phải mang theo dầu dự phòng. Đèn được thắp sáng nhờ có dầu. Ánh sáng được ví như đức tin của ta, dầu là lòng mến. Thánh Phaolô đã khẳng định rằng: “Cao trọng hơn cả vẫn là đức mến” (x. 1 Cr 13, 13). Cuối cùng, lòng mến sẽ giúp cho ta có khả năng thực hành thánh ý Thiên Chúa đến cùng. Lòng mến của ta sẽ chiếu sáng đến cùng. Không có lòng yêu mến, mọi việc ta đã làm xem như uổng công.
Ai có lòng mến, đức tin sẽ được diễn tả ra hành động và người khác sẽ nhận ra ánh sáng của họ, người khác cũng sẽ được vui hưởng ánh sáng của họ. Lòng mến Chúa và yêu người được ví như dầu cần phải có để có thể thắp sáng đức tin mỗi ngày. Tự sức mình, ta không thể gia tăng lòng yêu mến ấy được. Mỗi ngày, ta đều được đặt trước hai chọn lựa: chọn đứng về phía Thiên Chúa hay chọn theo Satan. Muốn trở thành chiến sĩ của Đức Kitô, ta phải sẵn sàng mặc lấy binh giáp là Lời Chúa. Lời Chúa là khiên thuẫn chở che ta, giúp ta chiến đấu đến cùng. Hãy mang lấy tâm tình của Chúa Kitô, để Người làm cho trái tim ta được lớn lên hơn nữa, được mở ra đón nhận tất cả mọi người. Mỗi ngày một giọt dầu yêu thương, ta sẽ có đủ dầu để thắp sáng cho đến giờ sau hết.
Lạy Chúa Giêsu! Chúa biết con yếu đuối và thiếu lòng yêu mến Chúa. Chúa đã yêu con đến cùng, Chúa muốn con được sống trong tình yêu thương của Chúa. Xin giúp con biết chọn yêu Chúa và thực thi ý Chúa với cả tình yêu nơi trái tim của con. Để nhờ đó, ngọn đèn đức tin nơi con luôn cháy sáng. Amen.
Anna Cỏ may
Khi đi đâu xa, chúng ta thường phải tính toán xem mình cần phải đem theo những gì và đem bao nhiêu là đủ. Nhưng có một số người thì khác, họ không cần tính, đi đến đâu họ mua ở đấy. Đó là sự tính toán riêng của mỗi người. Tuy nhiên, có những điều mà chúng ta không thể không tính toán và chuẩn bị sẵn sàng trước được.
Trong Tin Mừng Mátthêu, có mười cô trinh nữ cầm đèn đi rước chàng rể. Năm cô khôn cầm đèn và mang theo dầu, còn năm cô khờ dại mang đèn mà không mang dầu theo. Khi chàng rể đến chậm, các cô thiếp đi. Nửa đêm có tiếng hô: “Chàng rể đến rồi kìa, ra đón đi”. Bây giờ, năm cô khờ dại đến xin năm cô khôn chút dầu vì đèn sắp tắt. Các cô khôn đáp: “Sợ không đủ cho chúng em và cho các chị đâu, các chị ra hàng mua lấy thì hơn”. Đang lúc các cô khờ dại đi mua thì chàng rể đến. Năm cô khôn ngoan đã sẵn sàng nên được đi theo chú rể vào dự tiệc cưới. Còn năm cô khờ dại đã không được vào vì cửa đã đóng (x. Mt 25, 1-13).
Với lối văn ẩn dụ, Chúa Giêsu ví đèn là đức tin, dầu là lòng mến. Đức tin không được tỏa sáng là đức tin chết (x.Gc 2,17). Nhưng nếu chỉ có đức tin mà không có lòng mến chẳng khác nào như những người Pharisêu hay nhóm Kinh sư. Họ tin có Thiên Chúa và giữ luật rất ngặt, nhưng họ thiếu lòng mến. Họ nói mà không làm (x.Mt 23,1-12). Vì vậy, Chúa Giêsu mời gọi những ai mang đèn hãy mang dầu theo. Chúng ta phải luôn luôn có dầu trong cuộc sống. Để luôn luôn có dầu, đòi hỏi chúng ta cần có sự tìm kiếm và chắt lọc, suy tính và chọn lựa. May mắn thay, chúng ta không phải tìm kiếm ở đâu xa mà đã có ở nơi Thiên Chúa. Thiên Chúa hằng ban phát cho tất cả mọi người qua Bí tích Thánh Thể, Lời Chúa và trong các lời kinh hằng ngày. Bên cạnh đó, chúng ta còn có Mẹ Maria, Mẹ sẽ giúp chúng ta chắt lọc dầu mến trong cuộc sống qua những hy sinh đau khổ thường ngày. Có thế, chúng ta mới luôn có dầu để sẵn sàng thắp sáng khi Chàng Rể đến. Vì Chàng Rể của chúng ta luôn đến một cách bất ngờ.
Lạy Chúa là Thiên Chúa chúng con. Chúa biết chúng con đang sống trong một xã hội hưởng thụ, một xã hội chủ nghĩa cá nhân. Cuộc sống này khiến chúng con chỉ mải mê đi tìm và tích trữ những gì thuộc về thế gian, quên đi việc chuẩn bị đón chờ Chúa đến. Xin Chúa hãy đánh thức, biến đổi chúng con trong từng ngày sống để nhờ đó, chúng con biết quay trở về với Chúa là suối nguồn tình yêu và sống một cuộc sống hạnh phúc bên Chúa. Amen.
Thiên San
Ở quê, mỗi lần mất điện bất ngờ, cả làng liền ồ lên; rồi khi có điện trở lại, mọi người cùng reo hò mừng vui. Quả thật, nếu như không có ánh sáng của đèn điện, đèn dầu, nến… làm sao ta có thể nhìn thấy sự vật trong đêm tối, và sẽ thật khó khăn để có thể làm gì. Ngày xưa, người Do Thái thường có truyền thống rước rể ban đêm. Bởi đó, đèn và dầu là những thứ rất cần thiết cho việc di chuyển trong đêm. Hôm nay, khi kể về dụ ngôn “Mười trinh nữ”, Đức Giêsu dùng chính truyền thống đó để dạy chúng ta phải luôn canh thức để có thể sẵn sàng đón “Chàng Rể” đến bất cứ lúc nào.
“Are you ready?”- Bạn đã sẵn sàng chưa? Có lẽ, chúng ta cần trả lời câu hỏi đó trước khi bắt tay làm một việc gì đó. Tâm thế sẵn sàng sẽ giúp chúng ta thêm tự tin để bắt đầu và nó cũng là yếu tố quan trọng để có được thành quả tốt đẹp. Vậy để sẵn sàng bắt đầu một việc gì đó, chúng ta không thể không có bước chuẩn bị. Thật vậy, khi đã chuẩn bị mọi thứ, tính toán, cân nhắc tính khả thi, lường trước những khó khăn để từ đó vạch ra những kế hoạch, phương pháp thực hiện, chúng ta sẽ thật sự sẵn sàng thực hiện. Chẳng hạn, khi muốn xây một ngôi nhà, chúng ta phải ngồi lại tính toán các phí tổn, số vốn hiện có, quy mô, kiểu cách… để biết được mình có thể xây một ngôi nhà vào thời điểm này hay không. Hoặc khi muốn có một giờ nguyện ngắm tốt, ta cũng phải chuẩn bị bằng việc dọn gẫm. Cuộc sống luôn có những điều bất ngờ. Bởi vậy, ta cần phải luôn sẵn sàng để có tể đón lấy những cơ hội cũng như đối phó với những sự cố có thể xảy ra.
Đức tin dạy ta biết rằng, sự sống đời này chỉ là đời tạm, sự sống đời đời nơi Nước Trời mới là sự sống đích thực. Hành trình dương thế là cơ hội để ta tiến về quê hương đích thực. Chúng ta phải luôn chuẩn bị sẵn sàng “đèn” và “dầu” đủ cho cuộc hành trình. Trong chúng ta, ai có thể biết được ngày giờ Chúa gọi ta về diện kiến Thánh Nhan. Khi kể dụ ngôn “Mười trinh nữ”, Đức Giêsu mời gọi chúng ta phải sẵn sàng tỉnh thức “vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” (Mt 25,13). Sở dĩ các trinh nữ “khôn ngoan” được vào dự tiệc cưới cùng “Chàng Rể” là vì đèn và dầu của họ vẫn cháy sáng, và còn đủ cho cuộc hành trình. Đang khi chơi cùng đám bạn, thánh Đaminh Saviô được hỏi rằng: “Nếu Chúa đến vào lúc này thì con sẽ làm gì?” thì ngài đã trả lời: “Con vẫn tiếp tục chơi”. Tình yêu dành cho Chúa Giêsu đã giúp ngài luôn sẵn sàng chờ đời Chúa đến. Còn chúng ta, ngay bây giờ, nếu Chúa đến và gọi, chúng ta có sẵn sàng đi theo Chúa? Thật sự rất khó để sẵn sàng nếu đời sống ta còn nhiều “dở dang”, thiếu bác ái yêu thương, vẫn còn đó những lầm lỗi. Chúng ta hãy bắt chước các trinh nữ khôn ngoan biết chuẩn bị đèn dầu đầy đủ để dù “Chàng Rể” có đến muộn ta vẫn có thể đi theo Ngài vào dự tiệc cưới. Đèn và dầu của chúng ta là gì? Phải chăng là tình yêu và sự gắn bó với Chúa? Hay là một đức tin luôn cháy sáng trong những hành động bác ái đầy yêu thương ta dành cho Thiên Chúa và tha nhân? Hoặc là những nhân đức ta thủ đắc và tập luyện khi sống đức tin? Sự sẵn sàng của ta phải luôn luôn. Ta không thể chỉ yêu hôm nay nhưng là mọi ngày trong đời. Tình yêu trong ta phải được thắp lên bằng ngọn lửa của Thánh Thần, thôi thúc ta sống cho Chúa và tha nhân, làm tất cả chỉ vì tình yêu dành cho Ngài. Để chuẩn bị đầy đủ đèn dầu, thiết nghĩ, mỗi người phải tự mình trả lời được câu hỏi: Đèn và dầu của tôi là gì?
Lạy Chúa! Chúng con tha thiết dâng lên Chúa lời ca cảm tạ vì tình thương Chúa dành cho chúng con. Xin cho chúng con biết tận dụng mọi cơ hội Chúa ban trong từng ngày sống để mỗi ngày chúng con khám phá ra “đèn” và “dầu” của mình để biết chuẩn bị đầy đủ mọi thứ khi còn thời gian. Nhờ đó, chúng con có thể sẵn sàng cùng “Chàng Rể” là chính Đức Kitô vào dự tiệc cưới. Amen.
Lm Vũđình Tường
Tiệc cưới là thời gian đặc biệt. Đặc biệt vì đây là ngày đầu một gia đình được thành lập. Quan trọng hơn nữa là ngày này bắt đầu có những thay đổi lớn trong đời của đôi hôn nhân. Thay đổi đầu tiên là giã từ cuộc sống độc thân. Kế đến là nhận thêm họ hàng, thân thuộc hai bên. Đang từ kẻ xa lạ nay trở thành con, dâu, rể trong gia đình. Thay đổi kế tiếp là trở thành anh chị em trong đại gia đình mới, nhận thêm bà con họ hàng mới. Tóm lại thay đổi chính là từ người xa lạ thành người thân trong gia đình, với những liên hệ tình cảm mới. Đức Kitô dùng hình ảnh tiệc cưới trần gian diễn tả, giúp Kitô hữu hiểu biết thêm về những thay đổi tâm linh trong nước trời. Liên hệ Tâm linh khởi đầu bằng bí tích Thanh Tẩy. Qua bí tích Thanh Tẩy chúng ta trở thành con cái Chúa, là thành viên trong Giáo Hội Chúa, thành anh chị em trong đại gia đình Kitô hữu. Những thay đổi này bắt đầu nơi trần gian và hoàn thành, viên mãn nơi Thiên Quốc. Thánh Phaolô trong thư thứ nhất gởi tín hữu Thesaonica 4,13-18 viết: ‘Về những ai đã an giấc ngàn thu, tôi không muốn để anh em không hay biết, hầu anh em khỏi buồn phiên như những người khác, là những người không có niềm hy vọng…Dức Jêsu đã chết và đã sống lại… những người đã an giấc trong Đức Jêsu, cũng sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Jêsu… chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi’.
Dụ ngôn tiệc cưới nói về mười trinh nữ, năm khôn ngoan và năm khờ dại. Vì chàng rể đến chậm hơn theo chương trình nên tất cả đều mỏi mệt, thiếp ngủ. Ngủ không gây phiền toái gì. Phiền toái xuất hiện khi nghe loan báo chàng rể đến. Các cô khờ dại nhận biết đèn hết dầu, nên hỏi mượn dầu từ các cô khôn ngoan. Các cô từ chối và khuyên nên đi mua dầu ngoài chợ. Trong lúc các cô đi mua dầu, chàng rể đến. Có dầu rồi trở lại, tiệc cưới đã bắt đầu và cổng khoá chặt. Các cô kêu gọi nhưng không ai mở cho. Cái khờ dại đầu tiên là không chuẩn bị mang thêm dầu. Từ đây phát sinh ra nhiều cái dại khác. Thứ nhất tính kĩ quá, chắc quá hoá lép. Cần phải trừ hao trong việc tính toán. Thứ hai, các cô hỏi mượn dầu trong đêm là một sai lầm khác. Nếu mỗi cô khờ dại xin đi chung với một cô khôn ngoan, như thế cả hai cùng đi trong ánh sáng và cùng vào dự tiệc cưới. Việc đi mua dầu khiến cho người khác hiểu lầm là dầu (vật chất) quan trọng hơn đón chàng rể (con người). Việc làm này dẫn đến giải thích là vật chất quan trọng hơn con người. Những cô khôn ngoan đặt vấn đề đón chàng rể là quan trọng nhất; những cô khờ dại coi việc mua dầu quan trọng hơn cả. Sau khi vào dự tiệc cưới thì số dầu dự trữ, thừa thãi kia có lẽ sẽ chẳng bao giờ dùng đến. Như thế việc vay dầu và trả dầu trở thành thừa thãi. Hơn nữa sau tiệc cưới người cho vay dầu phải lưu lại chờ đợi cho các cô đi mua dầu về trả là một phiền toái lớn. Rất có thể lỡ cả chuyến xe về. Từ chối xem ra có vẻ khôn ngoan hơn, ít phiền toái hơn cho vay dầu. Thứ đến, việc từ chối không cho mượn dầu có thể là do liên hệ tình cảm giữa các cô lạnh nhạt. Thiếu tình cảm dẫn đến thiếu thông cảm. Điều các cô cần là dầu thì không được, các cô nhận được điều không cần là lời khuyên. Dù là lời khuyên đến từ người khôn ngoan. Điều này cho biết không ai suốt đời khôn, và cũng không ai suốt đời khờ. Kẻ khôn cũng có lúc dại; người dại cũng có lúc khôn. Trên đường lữ hành mà có bạn đồng hành là điều may lành. Không thân thiết với bạn đồng hành là một cái dại lớn bởi bạn đồng hành là người không những cùng đi với, chia sẻ tâm tình, vui cùng hưởng, hoạn nạn cùng chịu và nguy hiểm cùng bảo vệ, hỗ trợ.
Dụ ngôn tiệc cưới nhắc nhở Kitô hữu cần chuẩn bị kĩ cho tiệc cưới nước trời, tiệc cưới vĩnh cửu. Thời gian ta tại thế không nằm trong tay ta, không biết ngày nào, giờ nào vì thế cần chuẩn bị trước. Chuẩn bị bằng cách tạo mối giây liên hệ tình cảm tốt đẹp với Thiên Chúa và với tha nhân. Đây chính là những điều kiện cần thiết để được đón nhận vào nước trời. Tóm lại, chuẩn bị chính là thực hành cuộc sống yêu Chúa, thương người.
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Tỉnh thức và sẵn sàng là điều quan trọng hơn cả, nên Chúa tiếp tục dùng dụ ngôn nhắn nhủ chúng ta. Câu chuyện những cô gái được mời cầm đèn, làm hàng rước danh dự đi đón chàng rể, theo phong tục cưới hỏi, được Chúa dùng để diễn tả một vài khía cạnh của sự sẵn sàng ấy. Đám cưới thường tổ chức vào buổi tối mùa hè, khí trời mát mẻ. Chàng rể đến nhà đàng gái còn phải qua nhiều thủ tục, nhất là chuyện trao của hồi môn, trước khi đưa được cô dâu ra khỏi nhà. Trong khi đó đoàn rước dâu phải chờ. Cô dâu được chú rể rước về nhà trai, người ta nhảy múa ngoài sân cho tới khi đèn cạn dầu mới vào nhà, đóng cửa lại và nhập tiệc.
Chuyện Chúa kể chia 10 cô gái thành hai nhóm khôn và khờ, mỗi nhóm năm cô. Nhóm khôn mang đèn và mang theo dầu dự trữ, nhóm khờ mang đèn mà không mang dầu dự trữ. Chàng rể bị chậm trễ vì thủ tục ở nhà gái nên tới trễ. Cả mười cô cầm đèn danh dự đều ngủ thiếp đi. Nghe tiếng hô bừng dậy thì đèn nào cũng tắt vì cạn dầu. Nhóm khôn có dầu dự trữ thì thắp đèn lên, nhóm khờ đi xin dầu không được, phải đi mua. Nhóm khôn sẵn sàng thì nhập đám rước vào nhà. Nhóm khờ đi mua được dầu về tới nơi thì cửa đã đóng vì tiệc cưới đã bắt đầu. Nhóm khờ bị từ chối không cho vào dự tiệc. Chúa nhắc lại điệp khúc: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào giờ nào.”
Chúng ta tự hỏi, “dầu dự trữ” ở đây có ý nghĩa gì? Khôn và khờ đều thiếp ngủ cả. Cái khác của nhóm khôn là có mang theo chai dầu dự trữ, nên đèn vẫn sẵn sàng. Nhưng không chia cho nhóm khờ được. Vậy thì “đèn và dầu” ở đây phải là cái gì sâu thẳm trong mỗi người để lúc nào cũng có thể soi sáng con đường mình đi. Việc Chúa chia ra hai nhóm khôn và khờ, nhắc ta đi tìm ý nghĩa trong văn chương khôn ngoan của Cựu Ước. Đặc biệt sách Châm Ngôn, chương thứ chín kể dụ ngôn Đức Khôn Ngoan mở tiệc đãi khách và Mụ Khờ Dại cũng nhái theo, ngồi mời mọc kẻ qua người lại. Khôn Ngoan mời: Hãy đen mà ăn bánh của ta và uống rượu ta pha chế! Đừng ngây thơ khờ dại nữa, và các con sẽ được sống; hãy bước đi trên con đường hiểu biết… Nhờ ta con sẽ được sống lâu và tăng thêm tuổi thọ. Nếu con khôn thì chính con được hưởng, còn con ngoan cố thì gánh chịu một mình.
Còn “thực khách Mụ Khờ Dại mời, lại phải ở trong chốn âm ty sâu thẳm” (Cn 9,1-18). Những lời nhắn nhủ Chúa đưa ra trong bài giảng này và các dụ ngôn đều xoay quanh sự khôn ngoan, sống theo đường lối của Chúa, đừng để bị lừa dối bởi các kitô giả và ngôn sứ giả. Sự khôn ngoan của Tin Mừng được đón nhận và nắm giữ nhờ đức tin, là đèn và dầu của chúng ta. “Kẻ nào bền chí đến cùng, kẻ ấy sẽ được cứu thoát” (Mt 24, 13).(x.Tĩnh tâm với sách Tin mừng Matthêu, Lm Giuse Nguyễn Công Đoan. SJ).
Sự khôn ngoan của các cô trinh nữ là luôn tỉnh thức, tay cầm đèn cháy sáng trong tay và mang theo dầu dự trữ. Có thể hiểu “đèn cháy sáng” là luôn sống dưới ánh sáng hướng dẫn của Chúa và “dầu dự trữ” là những việc lành phúc đức như “của gởi về đời sau”.
Dụ ngôn Muời Cô Trinh Nữ được đặt trong bối cảnh chuẩn bị kết thúc năm Phụng Vụ.Chúa Giêsu được mô tả qua dung mạo chàng rể và tiệc cưới là Nước Thiên Chúa. Chàng rể đến chậm và vào lúc bất ngờ. Chúa Kitô quang lâm vào ngày tận cùng của lịch sử là điều không ai có thể đoán trước được. Người Kitô hữu được diễn tả như các trinh nữ đi đón chàng rể. Trong số các trinh nữ đó, có năm cô khôn ngoan và có năm cô khờ khạo. Họ đều là phù dâu nhưng khôn và khờ khác nhau ở chỗ là mang theo dầu dự trữ.
Họ giống nhau ở ba điểm: Tất cả đều mang theo đèn. Tất cả đều nhắm đến một mục đích là đi đón chàng rể. Tất cả đều ngủ thiếp đi vì chàng rể đến chậm. Nhưng họ chỉ khác nhau có một điểm: các cô khôn biết lo xa nên mang dầu đầy đủ, các cô khờ không biết chuẩn bị dầu phòng xa nên đèn tắt. Các cô khôn được theo chú rể vào dự tiệc cưới hạnh phúc. Còn các cô khờ bị đuổi ra ngoài.
Nếu đức tin được ví như đèn, thì đức mến được ví như dầu. Đèn đức tin phải có dầu đức mến. Thiếu dầu đức mến, ngọn đèn đức tin sẽ tắt. Chỉ có dầu tình yêu mới thắp sáng được cây đèn đức tin của người tín hữu. Thánh Gioan viết: “Ai không yêu thương thì không biết Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là tình yêu”.Cuộc đời và thế giới này rồi sẽ chấm dứt. Chúa sẽ đến ngày kết thúc đời người và dẫn vào dự tiệc Nước Trời. Mỗi người đều có đèn trong tay. Quan trọng là mình có chuẩn bị để ngọn đèn ấy cháy sáng vào lúc chung cuộc không. Quá muộn nếu đến lúc ấy chúng ta mới vội vã đi mua dầu.
Thiên Chúa muốn đưa con người vào tiệc cưới Nước Trời. Con người cần phải chuẩn bị sẵn sàng. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về số phận đời đời của mình. Không ai có thể làm thay cho mình được.
Giờ phút long trọng và quyết định, đó là lúc chàng rể xuất hiện, lúc ấy mỗi người chuẩn bị đèn cháy sáng của mình. Đến lúc này mới thấy là ai khôn và ai dại, ngọn đèn của các cô khôn ngoan vẫn còn cháy sáng, còn ngọn đèn của các cô khờ dại đã tắt từ lâu. Vào phút giây long trọng ấy, không ai có thể giúp mình được. Các cô khờ dại không thể xin dầu của ai được. Người khôn ngoan biết xác định cùng đích cuộc đời của mình và chuẩn bị những gì cần thiết để đạt được cùng đích đó. Người khờ dại không biết phải chuẩn bị những gì.
Ai cũng phải đối diện với ngày cuối cùng cuộc đời là giờ chết, phút giây ấy không ai giúp ai. Mỗi người theo sự khôn ngoan hay khờ dại đón nhận số phận chung cuộc.
Người ta cứ tự hỏi: Bao giờ chàng rể đến? Bình dầu thì cứ vơi dần! Màn đêm buông xuống, đôi mắt cũng nặng trĩu theo! Chờ đợi bao giờ cũng mệt mỏi căng thẳng!
Biết rằng đèn cháy sáng thì dầu cạn dần. Tình yêu chờ đợi mãi cũng mòn mỏi. Lời kinh có đôi khi cũng phôi pha. Hãy kín múc dầu tình yêu nơi suối nguồn yêu thương chính là Bí tích Thánh Thể. Nơi đó, chúng ta không chỉ nhận được dầu tình yêu, dầu ân sủng, mà còn được trao ban chính Mình Thánh Chúa làm của ăn, để chúng ta tỉnh thức mà chờ đợi Người dẫn đưa ta vào tiệc cưới Nước Trời.
Trước khi tắt thở, Thánh Têrêxa Avila môi mấp máy nói lên với Chúa :“Lạy Chúa Giêsu, này là giờ chúng ta gặp nhau”. Thánh Têrêxa Giêsu Hài Đồng thân thưa: “Lạy Chúa, con yêu mến Chúa” và ngài ra đi bình an. Hai trinh nữ khôn ngoan đã cầm đèn cháy sáng Tin Yêu ra đón Chúa và đã được gặp gỡ “Đấng Tình Quân” muôn thuở của mình.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con niềm tin vững vàng và lòng yêu mến nồng say để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa trở lại.Amen.
Trầm Thiên Thu
Kinh Thánh cho biết nguồn gốc của đức khôn ngoan: “Tất cả sự khôn ngoan đều phát xuất từ Đức Chúa, và khôn ngoan vẫn ở với Người đến muôn đời.” (Hc 1:1) Sự khôn ngoan được tác thành trước vạn vật (Hc 1:4) thì chắc hẳn rất cần thiết cho muôn loài, nhất là con người. Nhưng không phải bất cứ ai muốn cũng được, Thánh Mark Khổ Tu cho biết: “Chỉ có những người mù lòa trước tất cả những gì không phải là Thiên Chúa mới được Người ban tặng ơn khôn ngoan, cho họ nhìn thấy Người rõ nhất.” Một giá phải trả rất đắt, không bình thường chút nào!
Chính Thiên Chúa “đã tạo dựng, đã thấy, đã đếm và làm cho khôn ngoan nổi bật trên mọi công trình, nơi mọi phàm nhân, theo lòng quảng đại của Người, và Người đã rộng ban khôn ngoan cho những ai yêu mến Người.” (Hc 1:9-10) Quả thật, khôn ngoan là một nhân đức vô cùng cần thiết trong cuộc sống. Người khôn ngoan nhận biết các dấu chỉ thời đại, tiên liệu và dự phòng điều có xảy ra bất ngờ. Khôn ngoan không có nghĩa là học cao, vì có cả một bụng chữ cũng chưa chắc khôn ngoan. Người không học nhiều nhưng vẫn có thể khôn ngoan. Sống lâu cũng chưa chắc khôn ngoan hơn người ít tuổi. Menander (342-291 trước công nguyên) xác định: “Tóc bạc không sinh ra sự khôn ngoan.” Ai khiêm nhường cầu xin thì Thiên Chúa ban cho, để làm sáng danh Ngài chứ không để “chà đạp” người khác.
Mọi thứ đều có tính liên đới, cái này liên quan cái khác, con người cũng vậy, kể cả tội lỗi cũng có tính liên đới. Khôn ngoan là một nhân đức có liên quan sự tỉnh thức hoặc sự cảnh giác. William Arthur Ward (1921-1994, Hoa Kỳ) so sánh: “Khắc ghi một sự thật lớn lao vào trí nhớ là đáng nể, nhưng khắc ghi sự thật đó vào đời mình mới là khôn ngoan.” Sách Giảng Viên cho biết: “Người khôn biết mở mắt nhìn, kẻ dại bước đi trong tăm tối.” (Gv 2:14) Thật tai hại nếu thiếu khôn ngoan, mặc dù chưa đến nỗi ngây dại hoặc ngu xuẩn.
Tín nhân là người thực sự diễm phúc, vì được ơn khôn ngoan từ khi mới thành hình hài: “Bước đầu của khôn ngoan là kính sợ Đức Chúa, ngay từ lúc thành hình trong lòng mẹ, các tín hữu đã được ơn khôn ngoan.” (Hc 1:14) Đó là nền tảng, cần phát triển thêm. Càng có chức quyền càng cần khôn ngoan. Người ta phải đạt được sự khôn ngoan để có thể dùng tốt quyền lực đó, nếu không sẽ rất nguy hiểm. Xã hội Việt Nam ngày nay cho chúng ta thấy rõ mối nguy hiểm khôn lường bởi những kẻ thiếu khôn ngoan nhưng lại lớn chức, to quyền. Dân bị hành tới tận cùng bảng số.
Kinh Thánh xác định: “Con người ta dẫu thập toàn đi nữa mà chẳng có Đức Khôn Ngoan của Ngài, thì cũng kể bằng không không vậy.” (Kn 9:6) Rõ ràng là sự khôn ngoan vô cùng cần thiết.
ƠN KHÔN ĐỨC NGOAN
Theo Việt ngữ, chúng ta có thể “tách đôi” khôn ngoan thành Khôn và Ngoan – Khôn là một hồng ân, Ngoan là một nhân đức. Vua Salômôn thực sự khéo léo khi xin Chúa ban cho được khôn ngoan và hiểu biết để lãnh đạo dân. Và rồi ông đã có mọi thứ, vì điều ông xin đã làm Thiên Chúa hài lòng: “Bởi vì ngươi đã xin điều đó, ngươi đã không xin cho được sống lâu, hay được của cải, cũng không xin cho kẻ thù ngươi phải chết, nhưng đã xin cho được tài phân biệt để xét xử, thì này, Ta làm theo như lời ngươi: Ta ban cho ngươi một tâm hồn khôn ngoan minh mẫn, đến nỗi trước ngươi, chẳng một ai sánh bằng, và sau ngươi, cũng chẳng có ai bì kịp. Cả điều ngươi không xin, Ta cũng sẽ ban cho ngươi: giàu có, vinh quang, đến nỗi suốt đời ngươi không có ai trong các vua được như ngươi.” (1 V 3:11-13; 1 Sb 1:11-12) Có rồi thì được cho thêm, hơn cả những gì mong ước.
Sự khôn ngoan vô cùng cần thiết: “Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ. Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng. Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan cho gặp. Ai khao khát Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết. Ai từ sáng sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan thì không phải nhọc nhằn vất vả. Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà.” (Kn 6:12-14) Có mấy “điều nhỏ” có thể rất cần cân nhắc để phân định:
[1] Chỉ biết sáng đi làm, chiều về nhà, rồi ăn uống, xem ti vi, lướt web, và ngủ, thì chẳng khác gì động vật;
[2] Chỉ có ý ăn cắp cái gì đó của người khác thì cũng là điều tồi tệ nhất của cuộc đời;
[3] Làm thầy mà không dạy học trò biết ham học thì đó là người thầy kém cỏi, không đáng làm thầy;
[4] Học trò mà không biết lắng nghe thầy cô giảng bài thì là học trò ngu dốt, vô trách nhiệm với chính mình, chẳng hy vọng gì mai sau;
[5] Người có tình bộp chộp, nóng vội gây ảnh hưởng xấu cả tinh thần và thể lý, ảnh hưởng xấu tới những người xung quanh, xét về phương diện tinh thần thì người đó không hơn con chó giữ nhà;
[6] Sống mà thụ động, không ước mơ, luôn than phiền, người đó chẳng khác loài tầm gửi, chỉ biết bám víu vào cây khác để hút nhựa sống, hoặc như loài đỉa hút máu người khác để sống.
Mấy điều đó có thể khiến người ta “chạm” tự ái. Đừng nóng vội, cứ từ từ. Và không chỉ vậy, còn nhiều điều khác tương tự như thế. Quả thật, đó là kiểu ích kỷ, chỉ yêu mình, thiếu sáng suốt. Khôn thì phải Ngoan. Kẻ cố chấp thì không ai có thể giúp gì được.
Người khôn ngoan là người sâu sắc, nói ít, nghe nhiều, trầm lặng để thấm nhuần đức khôn ngoan vào máu thịt: “Để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan là đạt được sự minh mẫn toàn hảo. Ai vì Đức Khôn Ngoan mà thức khuya dậy sớm, sẽ mau trút được mọi lo âu. Vì những ai xứng đáng với Đức Khôn Ngoan thì Đức Khôn Ngoan rảo quanh tìm kiếm. Trên các nẻo đường họ đi, Đức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện. Mỗi khi họ suy tưởng điều gì, Đức Khôn Ngoan đều đến với họ.” (Kn 6:15-16) Ở đây là sự khôn ngoan xuất phát từ Thiên Chúa chứ không là sự khôn ngoan của phàm nhân.
Người khôn ngoan tìm kiếm những thứ bền vững, không hư hỏng, dù cho họ có thể bị coi là “điên rồ” theo cách nhìn của loài người, nhưng đó là điều kỳ diệu thuộc về Thiên Chúa. Hằng ngày họ luôn cầu nguyện: “Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ, ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa. Linh hồn con đã khát khao Ngài, tấm thân này mòn mỏi đợi trông, như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước. Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện, để thấy uy lực và vinh quang của Ngài.” (Tv 63:2-3) Có Chúa là có tất cả, không cần gì khác.
Người khôn ngoan chuyên tâm tìm kiếm Thiên Chúa, và họ có được Thiên Chúa. Thật vậy, Thánh Vịnh gia cảm nghiệm và chia sẻ: “Ân tình Ngài quý hơn mạng sống, miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương. Suốt cả đời con, nguyện dâng lời chúc tụng, và giơ tay cầu khẩn danh Ngài. Lòng thoả thuê như khách vừa dự tiệc, môi miệng con rộn rã khúc hoan ca. Con tưởng nhớ Chúa trên giường ngủ, suốt năm canh thầm thĩ với Ngài. Quả thật Ngài đã thương trợ giúp, nương bóng Ngài, con hớn hở reo vui.” (Tv 63:8) Có Chúa thì có bình an đích thực.
Người ta sẽ khắc khoải, bất an và nuối tiếc nếu thiếu sự khôn ngoan. Người ta trở nên bình an thư thái khi được ơn Chúa tác động. Đó là nhận thức cần thiết về tâm linh. Lúc về già, thi sĩ Bùi Giáng sống như người mất trí, ông lang thang khắp nơi với phong cách rất “bụi.” Ông đã than thở bằng thơ: “Ta cứ ngỡ trần gian là cõi thật – Thế cho nên tất bật đến bây giờ!” Ông như người điên nhưng lại rất tỉnh trong cách nhận định: “Đừng tưởng cứ núi là cao, Cứ sông là chảy, cứ ao là tù; Đừng tưởng cứ dưới là ngu, Cứ cao là sáng, cứ tu là hiền…” Rất đúng với xã hội ngày nay.
Tương tự, trong thi phẩm “Dại Khôn,” thi sĩ Trần Tế Xương nhận định: “Thế sự đua nhau nói dại khôn – Biết ai là dại, biết ai khôn.” Chẳng biết ai dại, ai khôn. Chúng ta tưởng người khôn mà hóa ra người dại, chúng ta tưởng người dại mà hóa ra người khôn: “Cái điên rồ của Thiên Chúa còn hơn cái khôn ngoan của loài người.” (1 Cr 1:25) Thánh Vịnh gia cho biết: “Kính sợ Chúa là đầu mối khôn ngoan.” (Tv 111:10) Đó là khôn ngoan nhất.
CỐ TỈNH MÀ THỨC
Chẳng ai biết ngày mai trời mưa hay nắng, chẳng ai biết đời mình sẽ ra sao, vì thế mà luôn cần sẵn sàng và tỉnh thức, nghĩa là phải biết mình khôn hay dại để tránh ảo tưởng hoặc tự phụ.
Phải Tỉnh mới có thể Thức, bởi vì có khi Thức mà không Tỉnh thì vẫn có nguy cơ. Chính Thiên Chúa cảnh báo: “Nếu ngươi không tỉnh thức thì Ta sẽ đến như kẻ trộm, ngươi chẳng biết giờ nào Ta sẽ đến bắt chợt ngươi.” (Kh 3:3) Bão bùng, giông tố, lũ lụt, động đất, sóng thần, sạt lở,… không ai biết ở đâu, lúc nào, dự báo thời tiết cũng chỉ là dự đoán – có thể đùng hay sai, cũng chẳng biết chắc thời điểm nào. Sau những vụ sạt lở, người ta không nhận trách nhiệm mà lại đổ lỗi kia, viện cớ nọ. Thứ trưởng tài nguyên và môi trường tại Việt Nam nói: “Hoạt động dân sinh có thể là nguyên nhân kích hoạt thiên tai.” (vnexpress.net) Một phát biểu cứ ngỡ của kẻ ngáo đá!
Thiên Chúa hằng hữu và toàn năng, Ngài luôn hiện diện trong mọi biến cố lịch sử của cuộc đời mỗi người. Danh nhân Rabindranath Tagore (Rabīndranātha Thākura, 1941-1961, Ấn Độ) đã cảm nhận sâu sắc về Đấng Toàn Năng: “Bạn không nghe thấy bước chân Người thầm lặng đó sao? Người tới và luôn luôn thường tới. Người tới và luôn luôn thường tới hằng giờ, hằng đêm, hằng ngày, hằng thời đại,… Người tới và luôn luôn thường tới qua lối đi nho nhỏ trong rừng, vào những ngày Xuân đượm nắng ngạt ngào. Người tới và luôn luôn thường tới trên xe mây ầm ầm tiếng sấm, vào những đêm Thu mưa ướt tối mù. Bước chân Người đã giẫm lên tim tôi đang ôm nặng những nỗi buồn dai dẳng. Khi niềm vui trong tôi ngời sáng, ấy là do chân Người vàng óng chạm vào.” Tư tưởng của R. Tagore rất gần với Công giáo, đặc biệt là tập thơ “Lời Dâng” (Gitanjali), với bút danh Bhānusiṃha – Sư Tử Thái Dương. Nhận định của ông thật tuyệt vời, ông hữu thần hơn chúng ta tưởng.
Từ ngàn xưa, Thánh Vịnh gia đã thân thưa: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết. Ngài bao bọc con cả sau lẫn trước, bàn tay của Ngài, Ngài đặt lên con.” (Tv 139:1-5) Thật vậy, đến từng sợi tóc trên đầu chúng ta cũng đã được Thiên Chúa đếm cả rồi. (Mt 10:30; Lc 12:7) Chắc chắn không có gì ngoài Thánh Ý Chúa. Thật chí lý khi người Mỹ luôn xác tín: “In God we trust – Chúng tôi tin vào Thiên Chúa.”
Thật kỳ diệu, sợi tóc chẳng đáng gì mà Thiên Chúa còn quan phòng, huống chi chuyện sinh – tử, liên quan sinh mạng con người, thụ tạo của Ngài. Thánh Phaolô cho biết: “Về những ai đã an giấc ngàn thu, chúng tôi không muốn để anh em chẳng hay biết gì, hầu anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin rằng Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Đức Giêsu sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Đức Giêsu.” (1 Tx 4:13-14) Ý tưởng này thật phù hợp khi chúng ta đang ở Tháng Cầu Hồn và cuối năm.
Được làm người và sống ở đời, chúng ta không chỉ đi bằng đôi chân, mà quan trọng hơn, đó là phải đi bằng cái đầu. Cũng vậy, sống không chỉ cần lương thực nuôi sống thân xác, mà quan trọng hơn, đó là phải cần lương thực nuôi sống tinh thần và linh hồn. Tín nhân chúng ta cần cả Thánh Thể và Lời Chúa, không thể thiếu một trong hai thần lương đó.
Vừa giải thích vừa động viên, Thánh Phaolô nói: “Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này, là chúng ta, những người đang sống, những người còn lại vào ngày Chúa quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu. Vì khi hiệu lệnh ban ra, khi tiếng tổng lãnh thiên thần và tiếng kèn của Thiên Chúa vang lên, chính Chúa sẽ từ trời ngự xuống, và những người đã chết trong Đức Kitô sẽ sống lại trước tiên; rồi đến chúng ta, những người đang sống, những người còn lại, chúng ta sẽ được đem đi trên đám mây cùng với họ để nghênh đón Chúa trên không trung. Như thế, chúng ta sẽ được ở cùng Chúa mãi mãi. Vậy anh em hãy dùng những lời ấy mà an ủi nhau.” (1 Tx 4:15-18) Qua đó, chúng ta biết chắc thời đại của chúng ta là thời cánh chung – thời cuối cùng. Không biết chúng ta có được diễm phúc chứng kiến thời điểm lịch sử vĩ đại nhất hay không, nhưng chắc chắn trải qua “tận thế riêng” là cái chết của chính mình.
Bởi vì chúng ta không biết nên mới phải cố gắng “tỉnh” để mà “thức” tới cùng, và không ngừng sống yêu thương bằng ý thức tâm linh: “Hãy lấy tình bác ái mà hết lòng tôn kính những người ấy, vì công việc họ làm. Hãy sống hoà thuận với nhau. Thưa anh em, chúng tôi khuyên nhủ anh em: hãy khuyên bảo người vô kỷ luật, khích lệ kẻ nhút nhát, nâng đỡ người yếu đuối, và kiên nhẫn với mọi người.” (1 Tx 5:13-14)
Dụ ngôn “Mười Cô Trinh Nữ” (Mt 25:1-13) nêu rõ vấn đề sẵn sàng và tỉnh thức. Đây là một trong các dụ ngôn đặc biệt nói về thời điểm cánh chung, cách riêng là “phút cuối” của mỗi chúng ta: “Phận con người là phải chết một lần, rồi sau đó chịu phán xét.” (Dt 9:27)
Rất cụ thể, Chúa Giêsu ví Nước Trời giống như chuyện mười trinh nữ chuẩn bị đèn để đón chú rể. Trong mười cô đó, có năm cô dại và năm cô khôn. Các cô dại có đèn mà không đem dầu theo. Các cô khôn có đèn và dự trữ dầu. Chú rể đến chậm nên các cô thiếp ngủ. Nửa đêm, có người báo chú rể đến. Bấy giờ, tất cả các cô đều thức dậy và thắp đèn. Nhưng đèn của năm cô dại cạn dầu, không đủ sáng. Họ xin các cô khôn chút dầu. Năm cô khôn không thể chia sẻ vì dầu không đủ để thắp sáng đèn cho chính mình và người khác, thế nên họ bảo năm cô dại ra hàng mà mua dầu. Đang lúc năm cô dại đi mua dầu thì chú rể tới, năm cô khôn đã sẵn sàng nên được đi theo chú rể vào phòng dự tiệc cưới. Và rồi cửa đóng, then cài. Nội bất xuất, ngoại bất nhập.
Rồi năm cô dại cũng về đến nơi và gọi cửa. Thế nhưng chú rể thản nhiên nói: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!” Thế thì tiêu. Chấm hết! Vì thế, Chúa Giêsu vừa căn dặn vừa cảnh báo: “Anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào.” Chắc hẳn Ngài không chơi trò ú tim hoặc gài bẫy ai. Người ta rất bướng bỉnh, đã được cảnh báo nguy cơ ngập lụt và sạt lở thế nhưng “kẻ đầu sỏ” không nghe. Và cái gì tới đã/sẽ tới!
Chỉ có một đời, một mạng, nhưng ai khôn và ai dại thì đã rõ, không mơ hồ hoặc đoán mò. Người mà chúng ta tưởng là khôn thì lại chỉ là kẻ dại, người mà chúng ta tưởng là dại thì lại là người khôn. Thi sĩ Trần Tế Xương đã “ngộ” ra và kết luận: “Này kẻ nên khôn đều có dại – Làm người có dại mới nên khôn.” (Dại Khôn) Thật kỳ diệu, chứ không kỳ cục, đối với 2K – Khôn và Khốn. Nên Khôn nhờ Khốn, thoát Khốn nhờ Khôn.
Chắc chắn ai nên khôn cũng đã hơn một lần khốn. Đau khổ càng nhiều thì kinh nghiệm càng dày. Ngay cả trong lĩnh vực tinh thần hoặc tâm linh, chúng ta thấy tuyết tương đối của bác học Einstein vẫn đúng. Tuyệt lắm! Tất nhiên chính Thiên Chúa đã tác động để ông khả dĩ thấu hiểu quy luật tự nhiên và đưa ra định luật như vậy. Trí thông minh và khôn ngoan ông có được là do Thiên Chúa trao ban để sinh lợi cho cả nhân loại.
Lạy Thiên Chúa là nguồn mọi sự thánh thiện, xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan, (Tv 90:12) xin dạy chúng con thấu triệt lẽ khôn ngoan, (Tv 51:8) và xin ban trí thông minh để chúng con được am tường thánh ý. (Tv 119:125) Xin giúp chúng con dẹp bỏ cái tôi để cuộc sống không tồi, cuộc đời không tối và bớt tội. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 32 TN_A
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXXII Thường Niên Năm A xoay quanh một chủ đề: “con người mong ước được gặp gỡ Thiên Chúa”.
Kn 6: 12-16
Bài Đọc I trích từ sách Khôn Ngoan, trong đó tác giả minh họa Đức Khôn Ngoan qua những phẩm tính thần linh. Đức Khôn Ngoan là đối tượng mà con người ra sức tìm kiếm và khao khát được gặp gỡ.
1Tx 4: 13-18
Bài Đọc II trích từ thư thứ nhất gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, trong đó thánh Phao-lô khẳng định rằng những tín hữu đã qua đời sẽ được sống lại để rồi cùng với những người đang sống gặp gỡ Thiên Chúa vào ngày Chúa Ki-tô quang lâm.
Mt 25: 1-13
Tin Mừng tường thuật dụ ngôn “Mười Trinh Nữ Đi Đón Chàng Rể”, trong đó chỉ năm cô khôn ngoan chuẩn bị chu đáo cho cuộc gặp gỡ này mới có thể vào dự tiệc cưới với chàng rể.
BÀI ĐỌC I (Kn 6: 12-16)
Sách Khôn Ngoan, sách cuối cùng của Cựu Ước, được viết không bằng tiếng Híp-ri, nhưng bằng Hy-ngữ, bởi một tác giả nặc danh, vào những năm 80-50 tCn. Tác giả, một người Do thái gắn bó với niềm tin của cha ông, sống ở thành phố A-lê-xan-ri-a bên Ai-cập, một trong những môi trường Do thái chịu ảnh hưởng văn hóa Hy-lạp, một nền văn hóa đề cao sự khôn ngoan và sản sinh nhiều trường phái triết học.
Lý do tác giả viết tác phẩm này chính vì Do thái giáo có nguy cơ bị nền văn hóa Hy-lạp rực rỡ đồng hóa. Tác giả muốn chứng minh rằng sự khôn ngoan của Kinh Thánh trổi vượt hơn sự khôn ngoan của ngoại giáo. Trên bình diện văn chương, tác giả định vị mình trong truyền thống Minh Triết Do thái, nhất là sách Châm Ngôn và sách Huấn Ca. Trên bình diện thần học, sứ điệp của tác giả về Đức Khôn Ngoan đã dọn đường cho khoa thần học về Ngôi Lời và khoa thần học về ân sủng.
Bản văn hôm nay, trích từ phần thứ hai của tác phẩm (ch. 6-10), ca ngợi Đức Khôn Ngoan. Trong phần trích dẫn này, tác giả nhân cách hóa Đức Khôn Ngoan cách sinh động, linh hoạt và thi vị qua bốn phẩm tính thần linh của Đức Khôn Ngoan:
- Đức Khôn Ngoan hiện thân Thiên Chúa (6: 12)
Trong câu đầu tiên của đoạn trích hôm nay, Đức Khôn Ngoan được minh họa qua hình ảnh ánh sáng vĩnh cửu: “Đức Khôn Ngoan sáng chói, và không hề tàn tạ” (6: 12a). Trong Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan, Ngôi Lời Thiên Chúa cũng được minh họa qua hình ảnh như vậy:
“Ngôi Lời là ánh sáng thật,
ánh sáng đến thế gian
và chiếu soi mọi người” (Ga 1: 9).
Với ai yêu mến Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan cho được diễm phúc chiêm ngưỡng mình:
“Ai mến chuộng Đức Khôn Ngoan
thì Đức Khôn Ngoan dễ dàng cho chiêm ngưỡng” (6: 12b).
Với ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan cho được diễm phúc gặp gỡ mình:
“Ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan,
thì Đức Khôn Ngoan cho gặp” (6: 12c).
Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan khẳng định rằng:
“Thiên Chúa, chưa bao giờ có ai thấy cả;
nhưng Con Một vốn là Thiên Chúa
và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha,
chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1: 18).
- Đức Khôn Ngoan đi bước trước (6: 13-14)
Với ai khao khát Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan tự tìm đến và tỏ mình ra cho người ấy:
“Ai khao khát Đức Khôn Ngoan,
thì Đức Khôn Ngoan đi bước trước mà tỏ mình cho biết” (6: 13).
Với ai tìm kiếm Đức Khôn Ngoan, Đức Khôn Ngoan đã hiện diện ở đó rồi, “ngồi ngay trước cửa nhà”. Một hình ảnh gợi lên những sáng kiến thần linh, như trực giác về điều mà các nhà thần học sau này gọi: “ân sủng dự phòng”:
“Ai từ sáng sớm đã tìm Đức Khôn Ngoan,
thì không phải nhọc nhằn vất vả.
Họ sẽ thấy Đức Khôn Ngoan ngồi ngay trước cửa nhà” (6: 14).
Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan cũng mô tả Ngôi Lời đi bước trước như vậy:
“Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta.
Chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người,
vinh quang mà Chúa Cha đã ban cho Người
là Con Một tràn đầy ân sủng và sự thật” (Ga 1: 14).
- Đức Khôn Ngoan giúp hoàn thiện sự hiểu biết (6: 15)
Đức Khôn Ngoan xứng đáng cho con người để hết tâm trí suy niệm, vì Ngài là nguồn mạch của mọi điều thiện hảo, ban hạnh phúc cho con người, trút bỏ mọi lo âu phiền muộn khỏi con người:
“Để tâm suy niệm về Đức Khôn Ngoan
là đạt được sự minh mẫn hoàn hảo.
Ai vì Đức Khôn Ngoan mà thức khuya dậy sớm,
sẽ mau trút được mọi lo âu” (6: 15).
Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan khẳng định rằng:
“Từ nguồn sung mãn của Người,
tất cả chúng ta đã lãnh nhận hết ơn này đến ơn khác.
Quả thế, Lề Luật đã được Thiên Chúa ban qua ông Mô-sê,
còn ân sủng và sự thật, thì nhờ Đức Giê-su Ki-tô mà có” (Ga 1: 16-17).
- Đức Khôn Ngoan tỏ mình ra cho những ai yêu mến mình (6: 16)
Mục đích của Đức Khôn Ngoan là tìm kiếm những ai yêu mến mình để dẫn họ đến với mình:
“Vì những ai xứng đáng với Đức Ngôn Khoan,
thì Đức Khôn Ngoan rảo quanh tìm kiếm.
Trên các nẻo đường họ đi,
Đức Khôn Ngoan niềm nở xuất hiện.
Mỗi khi họ suy tưởng điều gì,
Đức Khôn Ngoan đều đến với họ” (6: 16).
Tựa Ngôn của Tin Mừng Gioan mô tả Ngôi Lời cũng tương tự như vậy:
“Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận.
Còn những ai đón nhận, tức là những ai tin vào danh Người,
thì Người cho họ quyền trở nên con Thiên Chúa” (Ga 1: 11-12).
Nói tóm lại, Đức Khôn Ngoan được minh họa qua những phẩm tính thần linh như trên là hình bóng của “Ngôi Lời nhập thể”. Chính Đức Giê-su cất tiếng kêu mời con người đến với Ngài, gặp gỡ Ngài, đón nhận Lời Ngài, nội tâm hóa Lời Ngài để Lời Ngài trở thành nguồn mạch phun trào sự sống đời đời trong lòng mình. Với ai yêu mến Ngài, Ngài sẽ tỏ mình ra cho người ấy biết chân tính thần linh của Ngài: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy” (Ga 14: 21).
BÀI ĐỌC II (1Tx 4: 13-18)
Những người Ki-tô hữu tiên khởi tin rằng ngày Quang Lâm của Đức Giê-su sắp đến gần. Niềm tin này dựa vào lời quả quyết của Đức Giê-su: “Thầy bảo thật anh em: thế hệ này sẽ chẳng qua đi, trước khi mọi điều ấy xảy đến” (Mt 24: 34). Ngoài ra, vào thời đó, nhiều thế hệ Do thái chờ đợi ngày cánh chung mà các sách khải huyền Do thái đã tiên báo. Ấy vậy, trong số các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca có những người Ki-tô hữu gốc Do thái; họ dễ dàng chia sẻ bầu khí nôn nóng chờ đợi này. Chúng ta có thể cảm nhận tâm trạng đầy xao xuyến của những tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca khi họ nêu ra câu hỏi về số phận của những người giữa họ đã qua đời trước ngày Chúa quang lâm: làm thế nào những người này có thể được Ngài dẫn vào Nước Trời? Vậy số phận của họ sẽ như thế nào?
Thánh Phao-lô trấn an họ khi nhắc cho họ nhớ rằng niềm tin của họ đặt nền tảng trên cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su. Niềm hy vọng vào cuộc sống mai hậu dựa vào niềm xác tín rằng được nên một với Đức Ki-tô, chúng ta sẽ được chung phần vào cùng một vận mệnh với Ngài.
- Không ai được mất niềm hy vọng
“Anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những người không có niềm hy vọng”: Chắc hẳn nhiều lương dân được nuôi dưỡng bằng niềm hy vọng vào cuộc sống bên kia cái chết, như linh hồn bất tử của người Hy-lạp hay những đạo lý của những tôn giáo thần bí. Nhưng những người đó có thật sự xác tín như vậy hay không? Họ có dự kiến về sự phục sinh của thân xác hay không? Ngoài ra còn có biết bao người không chờ đợi bất cứ điều gì hay nghi nan ngờ vực.
“Dựa vào lời của Chúa, chúng tôi nói với anh em điều này”: Chắc chắn ở đây thánh Phao-lô không nhắm đến một lời chính xác nào đó của Chúa Giê-su, đúng hơn đây là giáo huấn Tin Mừng, dựa trên đó thánh Phao-lô công bố niềm hy vọng lớn lao xuất phát từ Đức Ki-tô.
- Một niềm xác tín không lay chuyển
Kiểu nói: “Chúng ta, những người đang sống” được hiểu là bao gồm cả thánh Phao-lô lẫn các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, những người mà thánh nhân đang ngỏ lời với họ. Quả thật, xem ra thánh Phao-lô hy vọng là mình vẫn còn sống để dự phần vào biến cố vinh quang này, vì thánh nhân nói thêm: “Những người còn lại vào ngày quang lâm, chúng ta sẽ chẳng đi trước những người đã an giấc ngàn thu đâu”. Nhưng kiểu nói này cũng có thể được hiểu một cách tổng quát, vì xa hơn một chút, thánh Phao-lô nói rằng thánh nhân không biết một chút gì về ngày quang lâm (bản văn này sẽ được trích dẫn vào Chúa Nhật tới).
Dù thế nào, “Lời Chúa” đem lại cho chúng ta một niềm xác tín: những người đang sống vào ngày Chúa quang lâm sẽ không được hưởng bất kỳ ưu tiên nào; đúng hơn những người đã qua đời sẽ sống lại trước tiên để rồi cùng với những người vẫn đang sống sẽ gặp lại Đức Ki-tô và hiệp nhất với Ngài mãi mãi.
Khi đọc đoạn thư này, đừng quá chú trọng đến cảnh tượng mô tả cuộc Quang Lâm ở đây. Thánh Phao-lô mượn những hình ảnh từ các sách khải huyền Do thái. Điều cốt yếu là thực tại mà các hình ảnh này muốn thông đạt.
TIN MỪNG (Mt 25: 1-13)
Dụ ngôn “Mười Trinh Nữ Đi Đón Chàng Rể” được dàn dựng như một vỡ kịch bắt đầu với phần Mở và chấm dứt với phần Kết, ở giữa được phân chia thành ba cảnh theo hình thức đối xứng nghịch đảo:
– Mở (25: 1-4)
Cảnh 1: Các cô trinh nữ ngũ thiếp vì chàng rể đến muộn (25: 5).
Cành 2: Chàng rể đến và phản ứng khác nhau (25: 6-9).
Cảnh 3: Số phận khác nhau (25: 10-12).
– Kết (25: 13)
– Mở (25: 1-4):
Phần Mở giới thiệu các nhân vật. Các cô được chọn làm phù dâu để rước cô dâu về nhà chú rể. Các cô phải có mặt lúc chàng rể đến, với đèn cháy sáng trong tay. Tuy nhiên, có những lúc do hoàn cảnh, chú rể có thể đến chậm, vì thế các cô phải tự mình tiên liệu những điều cần thiết để có thể chu toàn nhiệm vụ đã được giao phó cho mình.
Chắc hẳn Chúa Giê-su đã được gợi hứng từ phong tục tập quán rước dâu của người Do thái, rồi sửa đổi đôi điều để diễn tả giáo huấn của riêng Ngài. Theo tập tục lễ cưới của người Do thái, chàng rể cùng với đoàn rước đến đón cô dâu tại nhà cha mẹ của cô, rồi long trọng rước cô dâu về nhà mình, tại đây lễ cưới sẽ được cử hành với một bữa tiệc. Ở đây, Đức Giê-su không đề cập đến cô dâu, vì Ngài có chủ ý khai thác bài học từ các cô phù dâu mà thôi.
Ngay trong phần “Mở” này, Đức Giê-su cung cấp cho thính giả của Ngài chìa khóa để hiểu câu chuyện. Trong số mười cô trinh nữ, có năm cô được gọi là “khờ dại” vì không biết tiên liệu: mang đèn mà không mang theo dầu dự trữ, và năm cô được gọi là “khôn ngoan” vì biết tiên liệu: không chỉ mang đèn lại còn mang thêm dầu dự trữ. Cách sống của các cô khờ dại là “mặc kệ, tới đâu hay tới đó”, còn cách sống của các cô khôn ngoan là biết “tiên liệu phòng xa”.
– Cảnh 1: Các cô trinh nữ ngủ thiếp vì chàng rể đến muộn (25: 5):
Khi màn sân khấu được kéo lên, khung cảnh vắng lặng, không một tiếng động, các cô trinh nữ đều ngủ thiếp cả. Sự kiện các cô ngủ thiếp đi thực ra không có gì sai quấy cả, lý do đơn giản là vì chàng rể đến trễ hơn dự kiến. Cả mười cô đều ngủ, ấy vậy, năm cô khôn ngoan được xem là có thái độ tỉnh thức. Tình trạng tỉnh thức được hiểu ở đây là sau khi đã chuẩn bị mọi việc cách chu đáo, dự phòng những điều bất ngờ có thể xảy ra, các cô có quyền nghỉ ngơi.
– Cảnh 2: Chàng rể đến và phản ứng khác nhau (25: 6-9)
Đây là cảnh trung tâm của vở diễn. Có tiếng la vang lên giữa đêm vắng: “Chàng rể kia rồi, ra đón đi!”. Khung cảnh vắng lặng bổng nhiên chuyển động dồn dập đem lại kịch tính cho vỡ diễn. Thông thường chàng rể đến giữa tiếng đàn ca xướng hát nên người ta có thể nghe được từ đằng xa. Đàng này, lời loan báo bất ngờ vang lên đánh thức mười cô trinh nữ. Các cô lóng cóng chuẩn bị đèn. Khoảng khắc mà các cô mong chờ đã đến. Một chút nữa thôi, khi đèn được thắp sáng, các cô sẽ được tháp tùng chàng rể vào tiệc cưới.
Khi thấy đèn mình hết dầu, các cô khờ dại năn nỉ năm cô khôn ngoan chia sẻ dầu với mình. Thật kỳ lạ, năm cô khôn ngoan, mỗi cô có cả một bình đầy ắp dầu, lại từ chối chia sớt dầu với các bạn mình. Có phải các cô khôn ngoan quá ích kỷ không? Đây không phải là chuyện dầu đèn bình thường. Ngọn đèn mà các cô phải giữ cho cháy sáng để đón chàng rể là ngọn đèn đức tin, đức cậy và đức mến. Vì thế, để nuôi dưỡng ngọn đèn đặc biệt này, cần đến dầu đặc biệt, dầu của đức tin, đức cậy và đức mến. Đức tin, đức cậy và đức mến là một hành vi tự do và riêng tư của mỗi người. Vì thế, không ai có thể chia sẻ đức tin, đức cậy, đức mến của mình với người khác. Khi từ chối, các cô khôn ngoan chỉ nêu lên hậu quả do thái độ thiếu tiên liệu. Bây giờ mọi sự đã quá muộn. Mỗi người phải chịu trách nhiệm về cuộc đời của mình.
– Cảnh 3: Số phận khác nhau (25: 10-12)
Trong khi năm cô khờ dại đi mua dầu thì chàng rể đến. Năm cô khôn ngoan với đèn cháy sáng trong tay tháp tùng chàng rể vào dự tiệc cưới. Cửa phòng tiệc đóng lại.
Sau đó, các cô khờ dại cũng đến khẩn khoan van xin: “Thưa Ngài, thưa Ngài! Mở cửa cho chúng tôi với”, nhưng chàng rể đáp lại: “Tôi bảo thật các cô, tôi không biết các cô là ai cả!”. Cuộc đối thoại ngắn này cho thấy sự thiếu sót lúc đầu tưởng rằng đây chỉ là một lỗi sơ xuất vô hại: mang đèn mà không mang theo dầu dự trữ, nhưng bây giờ trở nên một hậu quả nghiêm trọng khôn lường: không được vào dự tiệc cưới với chàng rể. Bài học được rút ra: đừng ai nghĩ rằng hễ đã được chọn vào đoàn rước là đảm bảo cho mình được tham dự tiệc cưới. Các cô khờ dại, vì sự chểnh mảng không dự phòng dầu để giữ cho đèn cháy sáng, đã bị loại ra khỏi tiệc cưới.
Đến đây dụ ngôn trở thành ẩn dụ: “chàng rể” là Đức Ki-tô; “mười cô trinh nữ” là hình ảnh Giáo Hội đang chờ đợi ngày Quang Lâm của Chúa mình; “thời gian chậm trễ” diễn tả ngày Quang Lâm bị trì hoãn lâu dài, dù các Ki-tô hữu cứ tưởng là gần kề; tham dự tiệc cưới là được dự phần vào hạnh phúc Nước Trời; “cửa đóng lại” diễn tả sự khai trừ dứt khoát, nhắc chúng ta nhớ lại lời cảnh báo của Đức Giê-su: “Trong ngày ấy, nhiều người sẽ thưa với Thầy rằng: ‘Lạy Chúa, lạy Chúa, nào chúng tôi đã từng nhân danh Chúa mà nói tiên tri, nhân danh Chúa mà trừ quỷ, nhân danh Chúa mà làm nhiều phép lạ đó sao?’ Và bấy giờ Thầy sẽ tuyên bố với họ: ‘Ta không hề biết các ngươi; xéo đi cho khuất mắt Ta, hỡi bọn làm điều gian ác’” (Mt 7: 22-23).
– Kết (25: 13):
Câu 13: “Vậy anh em hãy canh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào” được dùng để kết thúc dụ ngôn “Mười Trinh Nữ” xem ra không hợp lý cho lắm, bởi vì cả mười cô đều ngủ. Vả lại câu chuyện không trực tiếp dạy về “tỉnh thức”, nhưng về việc chuẩn bị dầu đèn trong tư thế sẵn sàng đón Chúa bất cứ khi nào Ngài đến. Thật ra, tư thế tỉnh thức ở đây hệ tại ở nơi quyết tâm của người môn đệ là trung tín chu toàn những gì mình đã được giao phó.
Lm. Jos DĐH.
“Trí khôn của ta đây”, đó là thông điệp mà truyện cổ tích Việt Nam, vẫn đang ghi vào tâm tư trẻ thơ bài học khôn ngoan, một bài học chất chứa đầy kỹ năng sống động. Câu truyện cho thấy, vì bị kích thích tính tò mò, Cọp muốn hiểu, muốn biết tại sao thân to, xác lớn, cọp lại sợ con người. “Chú Cọp” lân la hỏi: này anh bạn, sao anh to lớn như vậy mà để cho người ta bé nhỏ, quát mắng, quất vụt, phải kéo cày như thế ? Trâu ngượng ngùng đáp: vì người có trí khôn, anh cứ đến mà hỏi con người sẽ rõ hơn. Kết thúc câu truyện là Cọp đồng ý chịu người nông dân trói buộc, chỉ mong thoả mãn cái biết, trong khi đó Trâu thì cười té ngửa, trước sự linh lợi của con người: “trí khôn của ta đây” !
Khôn ngoan, dại khờ, cuộc đời là thế, “cái biết” luôn đi cùng với “cái giá” phải trả: muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học, có cái biết nào miễn phí đâu ? Kinh nghiệm đón khách quý đến nhà, không thể thiếu sự chuẩn bị, ít là theo tiêu chí: nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm, hoặc trân trọng hơn: khách đến nhà không gà thì vịt. Việc sạch đẹp bên ngoài và niềm vui bên trong, có chút liên quan tới khôn và khờ. Trâu đi cày, phải chịu đòn vọt, khác với Cọp phải bị roi đòn, sợ hú vía, có liên quan đến “tỉnh” và “say”. Đâu phải tự nhiên mà bậc sinh thành quở trách con cháu: khôn nhà dại chợ. Không phải vô tình mà tiền nhân chúng ta lại nói: cười có nguy cơ bị đánh giá là vô duyên, khóc lóc, vẫn bị xem thường là yếu đuối ; bình tĩnh, biết cân nhắc sự việc, cư xử hợp tình hợp lý, luôn được gọi là khôn là ngoan.
Khi trưng dẫn dụ ngôn 10 trinh nữ đi đón chàng rể, Chúa Giêsu không bi quan cho rằng chỉ có 50% số người lanh lợi, hoặc Nước Trời chỉ đủ chỗ cho một nửa nhân loại, đúng hơn, tiệc Nước Trời luôn là cơ hội cho tất cả mọi người khi tỉnh thức, khôn ngoan, biết sống chọn lựa. Mười trinh nữ đi đón chàng rể, họ đều khôn, đã ý thức chọn lựa, do chàng rể đến chậm, các cô đã thiếp ngủ, vì họ giới hạn như nhau, 5 cô bị gọi là khờ, khi không chuẩn bị dầu dữ trữ, nên không đủ chuẩn vào dự tiệc Nước Trời. Muốn vào dự tiệc cưới cùng chàng rể, các cô phải khôn ngoan, có sự chuẩn bị, ở trong tư thế sẵn sàng, phòng tiệc sẽ không mở cửa cho người khờ, thiếu chuẩn bị. Phòng tiệc Nước Trời sẽ không mở, nếu đương sự ngu muội, không tỉnh thức, không cầm cháy sáng trong tay, không minh chứng được sự khôn ngoan theo ý chàng rể Giêsu.
Người nông dân trả lời với con Cọp: trí khôn của ta đây, quả là dễ dàng. Con người chẳng bao giờ trả lời với Đấng tạo thành: khôn ngoan của tôi ở đây, ở kia. Dù khối tài sản bạn to lớn, sự khôn ngoan thật mà bạn muốn mua cũng không thể mua được, không phải vì đó là tiền âm phủ, nhưng vì ở đời không ai đủ khả năng bán sự khôn ngoan. “Các chị cho chúng em xin chút dầu, vì đèn của chúng em đã tắt”, vâng, tình yêu ai bán mà mua, ai cho mà nhận ai thừa mà xin ? Người yêu phải giữ trong tim, phải ghim trong não chứ tìm đâu ra ? Ở trần gian, ta có thể vay mượn tiền của vật chất để tiêu dùng ; khi chàng rể Giêsu đến, không ai có thể mua, hoặc vay mượn công phúc của người khác để trình diện, để trả lời với Chúa: khôn ngoan của con đây ! Khôn ngoan trong Chúa là khôn ngoan thật, là biết cậy trông vào Chúa, để dầu đèn đức tin luôn sáng mãi với thời gian.
Câu truyện dụ ngôn 10 trinh nữ cho thấy nhờ khôn ngoan, người ta sẽ không lỡ chân, trật bước, nhờ tỉnh thức mà đèn lúc nào cũng cháy sáng, nhờ luôn trong tư thế sẵn sàng, ta không phải ưu tư lo lắng khi nào chàng rể Giêsu đến. Thiên Chúa là tình yêu, Ngài không nói, không cho biết ngày giờ tháng năm chàng rể đến, chẳng muốn một thành viên nào bị mang tiếng là khờ dại, là dầu đèn đức tối tăm hết chiếu sáng. Thiên Chúa vẫn cho con người có thời gian suy xét, có cơ hội thức tỉnh sám hối, hầu trả lời với Đức Kitô Đấng đang đến, sẽ đến: khôn ngoan của con đây, việc sống đức tin, đức ái của con đây. Hãy là người khôn ngoan, “hãy tỉnh thức, vì không biết giờ nào, lúc nào Con Người đến”.
Mười trinh nữ đi đón chàng rể, hay mỗi người có một hành trình dài ngắn khác nhau, để chuẩn bị, để minh chứng với chàng rể Giêsu, “con là đầy tớ khôn ngoan và trung tín” của Chúa. Cha ông ta thì dạy rằng: khôn làm cột cái, dại làm cột con, chàng rể Giêsu, Đấng cứu độ trần gian, ước mong tất cả mọi người đều đủ khôn, đủ hiểu, đủ ơn Chúa mà sống tốt ơn gọi của mình. Sống đức tin, sống tỉnh thức, không phải là từ sáng đến tối cứ đứng im cầm đèn cháy sáng, mà phải dấn thân, thể hiện được niềm tin với nén bạc mỗi người, mỗi hoàn cảnh và ơn gọi, ta đang có mà sống xứng hợp nhất. Xin Chúa Giêsu Đấng là Thầy là Chúa, là Đấng đã thắng thế gian, giúp chúng con luôn biết sống ơn ban, hầu chúng con đủ tự tin, mai này sẽ thân thưa: lạy Thầy, khôn ngoan của con đây. Amen.
Lm. Xuân Hy Vọng
Kính thưa quý ông bà và anh chị em rất thân mến! Với cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ đầy kịch tính không chỉ tại Mỹ mà dậy sóng sôi sục tại nhiều nơi trên toàn thế giới. Dường như khác với mọi kỳ bầu cử, riêng lần này với nhiều biến cố, sự kiện cũng như vô vàn sự thật phơi bày ra trước mắt chúng ta, thì hầu hết đâu đó có chung một nhận định: đây không đơn thuần là cuộc bầu cử Tổng thống Hoa Kỳ, mà là cuộc chiến cam go giữa chân lý và gian dối, giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa thiện lành và ác dữ…Qua đây, chúng ta thấy được yếu tố ‘tỉnh thức’, ‘sẵn sàng’ và ‘kiên vững’ rất quan trọng trong khi chờ đợi chiến thắng vinh quang của chân lý.
Song, Tin mừng hôm nay nhắc chúng ta nhớ đến lí do khác trong dụ ngôn ‘mười cô trinh nữ’. Trong lúc chờ đợi chàng rể tới, cả mười cô đều ngủ thiếp đi, bất luận là khôn ngoan hay khờ dại “…vì chàng rể đến chậm, nên các cô đều thiếp đi và ngủ cả” (x. Mt 25, 5). Tại sao chàng rể lại đến trễ? Phải chăng chàng rể muốn đến muộn như vậy? Rất nhiều nghi vấn được đặt ra, nhưng tựu chung lại, chúng ta thấy rằng: Thiên Chúa đến không theo lịch trình, thời gian, kỳ vọng của con người. Ngài thực hiện chương trình theo thánh ý và theo thời điểm của Ngài.
Tuy nhiên, một thực tế rõ ràng là người khôn ngoan hay kẻ khờ dại đều không thể nào chiến thắng ‘trạng thái buồn ngủ, thiếp đi’ trong lúc chờ đợi. Vô số lí do vì sao chúng ta lại ngủ thiếp đi. Có lẽ quá mệt mỏi về thể xác cũng như tinh thần! Hay thao thức, kỳ vọng điều mình muốn mà nó lại chẳng đến hoặc chưa đến, nên chúng ta cảm thấy thất vọng, chán chường! Hơn thế, chúng ta không đủ tỉnh táo, mất đi động lực, nhuệ khí tan biến,…nên dễ dàng rơi vào trạng thái ngủ thiếp đi. Nếu ai trong chúng ta có trải nghiệm chăm sóc người bệnh, đặc biệt người thân thì nhận ra được tính hệ trọng, khẩn cấp của việc tỉnh thức ra sao.
Quả thật, trong đời chúng ta, ít nhiều ai cũng đã rơi vào trường hợp ‘ngủ thiếp’ và ‘chưa tỉnh thức’; nhưng điều quan trọng hơn mà dụ ngôn ‘mười cô trinh nữ’ lột tả, chính là: đèn và dầu. Trong số mười cô trinh nữ, cho dù khôn ngoan hay khờ dại, ai cũng mang đèn, song điểm khác biệt lớn lao và mang tính quyết định là: năm cô khôn ngoan chuẩn bị dầu thắp đèn tươm tất và dồi dào, còn năm cô khờ dại thì chẳng mang theo dầu thêm đề phòng trong trường hợp đèn hết dầu nữa chừng. Ở đây, chúng ta nói đến sự khôn ngoan trong đời sống đức tin, hơn là tính thông minh, sáng dạ, khôn khéo, lanh lợi nơi bản tính con người, hay theo cấp độ xã hội. “Những ai yêu mến Đức Khôn Ngoan, sẽ xem thấy dễ dàng, và những ai tìm kiếm, sẽ gặp được. Đức Khôn Ngoan sẽ đón tiếp những ai khao khát…” (x. Kn 6, 12-13). Ai trong chúng ta đều được Chúa ban cho ánh sáng đức tin qua biểu tượng “cây nến cháy sáng” hay “chiếc đèn sáng rực” khi chúng ta được lãnh nhận Bí tích Rửa tội. Rồi lớn dần lên, chúng ta được trau dồi, học hỏi, rèn luyện trong đời sống đạo đức từ cách dạy dỗ, hướng dẫn của cha mẹ, của cha xứ, quý sơ và các anh chị giáo lý viên, v.v…ngõ hầu ánh sáng đức tin ấy ngày càng được bừng cháy. Trên hết, Thiên Chúa luôn đồng hành, nâng đỡ, khích lệ, giáo dục chúng ta từng bước qua Giáo Hội, qua việc tham dự Thánh lễ, lãnh nhận các Bí tích, qua việc đọc-học-suy niệm Kinh Thánh, qua sinh hoạt giáo xứ trong các hội đoàn, qua mọi biến cố vui hay buồn trong đời, v.v…, cụ thể, Ngài tuôn đổ hồng ân, ơn lành, đặc sủng, đoàn sủng, những ơn cần thiết, thậm chí Ngài ban cả Thánh Thần cho chúng ta. Vậy, hình ảnh ‘dầu’ ở đây chính là ơn thánh, là Đức Khôn Ngoan, là chính Chúa Thánh Thần. Đèn cháy sáng cần dầu thế nào, thì đời sống đức tin cần đến ơn Chúa, sự hướng dẫn của Chúa Thánh Linh như vậy.
Hơn nữa, hình ảnh ‘dầu’ cũng khiến chúng ta liên tưởng đến sự nỗ lực cộng tác với ơn Chúa hằng ngày, qua việc hy sinh sống Lời Chúa giữa những bề bộn cuộc sống thực dụng, vật chất này. ‘Dầu’ không chỉ giúp đốt cháy, giữ mãi ánh lửa bừng sáng, mà còn dùng chữa lành, chăm sóc như người Sa-ma-ri-a nhân lành đã làm khi thấy người xa lạ mắc nạn bị vứt bỏ bên lề đường. Với ‘dầu’ này, chúng ta dám bỏ thời gian, của cải, kế hoạch, chương trình, lịch hẹn hò của bản thân mà ân cần chia san với anh chị em đang cần đến mình, bất luận chúng ta biết họ hay không, họ thân quen hay xa lạ với chúng ta hay không! Việc sửa soạn đèn của năm cô khôn ngoan cũng khá ư dễ dàng, bởi lẽ họ đã chuẩn bị lượng dầu dự trữ đầy ắp. Tuy nhiên, tại sao các cô khôn ngoan lại không chia bớt dầu cho năm cô khờ dại? Thậm chí có người còn cho rằng: năm cô khôn ngoan thật ích kỷ, chẳng phải bạn tốt? (giáo dân trong lớp giáo lý trưởng thành của tôi đã nghĩ vậy!!!!). Đễ dễ liên tưởng và trả lời đúng đắn, chúng ta thử nghĩ đến thời gian Chúa gọi chúng ta về (lúc hấp hối), thì thử hỏi chúng ta còn có cơ hội ‘vay mượn’ hay ‘chạy đi mua’ không? Mặc khác, ơn Chúa ban cho chúng ta theo bậc sống, theo trách vụ của mỗi người nữa như: đặc sủng dành cho những ai sống đời sống thánh hiến khác với đặc sủng của người sống đời sống hôn nhân-gia đình…
Tóm lại, Chúa ban cho chúng ta cả ‘đèn’ và ‘dầu’, nhưng trong khi tỉnh thức chờ đợi theo thời gian của Chúa, thì chúng ta cần noi gương năm cô khôn ngoan. Cho dù có thiếp ngủ đi vì lí do nào đi chăng nữa, thì với ‘đèn đầy dầu’, chúng ta lại tỉnh giấc, thức dậy, sẵn sàng đón chàng rể vào tiệc mừng muôn đời.
Lạy Chúa, xin giúp con như năm cô khôn ngoan
Dù phải thiếp đi trong khi chờ đợi chàng rể đến
Cũng chẳng bao giờ quên ‘đèn đầy dầu cháy sáng’
Như đèn rực rỡ cần đến dầu tràn trề thế nào
Ánh sáng đức tin của con cần đến ơn Thánh đến như vậy.
Xin giúp con luôn luôn sẵn sàng, sửa soạn chong đèn
‘Dầu’ dạt dào mãi đốt cháy ngọn nến sáng yêu thương. Amen!
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Qua dụ ngôn mười cô trinh nữ cầm đèn đón chàng rể đến trễ giữa đêm khuya, Chúa Giê-su dạy chúng ta phải để cho đèn nhân đức của mình tỏa sáng như những chiếc đèn trong tay năm cô phù dâu khôn ngoan. Nhờ có đèn sáng trên tay, năm cô khôn ngoan được đón vào phòng tiệc trong vui mừng hoan hỉ.
Và nếu ánh sáng nhân đức của chúng ta cũng tỏa sáng như đèn giữa thế gian thì chúng ta cũng sẽ được Thiên Chúa mời vào phòng tiệc trên trời để cùng với triều thần thánh vui hưởng hoan lạc đời đời trên thiên quốc.
Ngược lại, năm cô phù dâu khờ dại được thuật lại trong bài Tin mừng hôm nay thức dậy giữa đêm đen đón chàng rể đến và vì đèn đã cạn dầu nên không có ánh sáng trên tay, do đó đã bị xua ra ngoài đêm tối, lủi thủi lê bước về nhà trong đau buồn tủi nhục.
Tương tự như thế, những ai thiếu đức hạnh thì cũng như đèn cạn dầu, cuộc đời họ tối om và hậu quả là họ phải bị đuổi ra ngoài trong bóng tối khổ đau miên trường bất tận.
Ngoài ra, trong Tin mừng Mát-thêu, Chúa Giê-su mời gọi mỗi người chúng ta phải tỏa chiếu ánh sáng nhân đức. Ngài nói : “Ánh sáng của các con phải được chiếu giải ra trước mặt thiên hạ, để họ xem thấy những công việc tốt đẹp các con làm mà tôn vinh Cha các con trên trời.” (Mát-thêu 5,16)
Hữu xạ tự nhiên hương
Hễ đâu có mùi hương thì tất nhiên mùi hương đó sẽ tỏa lan ra. Người xưa dùng câu nói này để diễn tả một quy luật cuộc đời là hễ có gì bên trong thì sẽ phơi bày ra bên ngoài không thể che đậy, dấu diếm được.
Ai hiền lành thì sự hiền lành sẽ tỏa sáng như ánh đèn trong đêm tối và mọi người đều nhìn thấy và mến mộ.
Ai hung dữ thì sự hung dữ sẽ lộ ra ngoài, không tài nào che giấu được nên ai cũng thấy người đó là kẻ hung dữ và tìm cách xa lánh.
Ai khiêm tốn thì sự khiêm tốn sẽ lan tỏa như hương thơm khiến mọi người quý mến.
Ai kiêu căng thì sự kiêu căng đó sẽ phải lộ ra ngoài không thể che giấu được và mọi người đều thấy đó là kẻ kiêu căng nên không muốn lại gần.
Nói tóm lại: Mùi hôi của tính xấu sẽ tỏa lan khiến nhiều người xa lánh.
Hương thơm của nhân đức sẽ tỏa ngát khiến nhiều người quý trọng, mến yêu.
Ai không tỏa sáng nhân đức thì số phận đời sau của họ cũng tương tự như số phận của năm cô phù dâu dại khờ ; họ sẽ không được đón nhận vào phòng tiệc trên trời mà lại bị xua ra ngoài trong bóng tối miên trường khổ đau bất tận.
Còn ai tỏa sáng nhân đức sẽ được người đời quý mến trong đời sống hiện tại, lại còn được mời vào phòng tiệc trên trời muôn đời hoan hỉ.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con noi gương năm cô trinh nữ khôn ngoan biết tích lũy thật nhiều đức hạnh ; đó là thứ dầu quý làm cho tâm hồn chúng con lúc nào cũng tỏa sáng ; nhờ đó sẽ được mọi người quý trọng và được Chúa ban thưởng đời đời.
Xin giúp chúng con tránh xa tội lỗi và thói hư tật xấu vì đây là nguyên nhân làm cho tâm hồn chúng con tối tăm, hôi hám và vì thế mà bị xua đuổi ra ngoài như năm cô phù dâu không có đèn sáng trên tay. Amen.
SỰ CHỌN LỰA “VỀ ĐÍCH” KHÔN NGOAN
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Trong những ngày này, hầu như rất nhiều người tại đất nước Hoa Kỳ và nhiều nơi trên thế giới, cứ mỗi ngày thức dậy là chăm chăm soi vào màn ảnh truyền hình, máy tính hay điện thoại thông minh… để “tìm kiếm kết quả” cuộc chạy đua vào Nhà Trắng của hai ứng viên Tổng Thống D. Trump và J. Biden. Vâng “câu chuyện Tổng Thống Mỹ” đang là vấn đề nóng nhất hiện nay; và thậm chí, nhiều người cho rằng: kết quả bầu chọn vị Tổng Thống mới của nhiệm kỳ 4 năm sắp tới của Mỹ sẽ định hướng cho một “trật tự thế giới mới”.
Nhưng có thật sự là như thế không ? Liệu “một con người” hay một “chính phủ” có thể định hướng hay đổi thay cả một “con đường”, một “lộ trình” đầy phức tạp, nhiêu khê của cả thế giới nầy ?
Đối với những con người mang tâm thức “duy kinh tế, khoa học, kỹ thuật, sự thông minh…” và “sùng bái” tư cách “cường quốc số một” của Hoa Kỳ cùng với cung cách bang giao mang tính “sen đầm quốc tế” của quốc gia hùng mạnh nhất hành tinh nầy, thì câu trả lời sẽ là “có”. Nhưng, đối với những ai nhìn “cuộc cờ thế giới” trong viễn tượng đức tin và sự quan phòng đầy khôn ngoan của Thiên Chúa, thì câu trả lời chắc chắn sẽ là “không” ! Vì Thánh vịnh 127 đã dạy rằng: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả chỉ là uổng công” !
Và đây chính là nội dung sứ điệp Lời Chúa muốn chuyển tải đến cộng đoàn Kitô hữu chúng ta trong Chúa Nhật gần cuối năm Phụng vụ nầy: MỘT SỰ LỰA CHỌN “VỀ ĐÍCH” KHÔN NGOAN HAY HÃY TÌM KIẾM THIÊN CHÚA VÀ SỰ KHÔN NGOAN ĐÍCH THỰC ĐẾN TỪ NGÀI.
Trước hết, sứ điệp nầy đã từng được vang lên trong suốt chặng đường lịch sử cứu độ, qua tiếng gọi của các sứ ngôn, các bậc hiền giả từ xa xưa trong lịch sử của dân tộc Israel mà những lời Thánh Vịnh 62 được chọn làm Đáp Vịnh Ca hôm nay chứng tỏ:
Lạy Chúa là Thiên Chúa con, linh hồn con khao khát Chúa.
Ôi lạy Chúa, Chúa là Thiên Chúa của con, con thao thức chạy kiếm Ngài. Linh hồn con khát khao, thể xác con mong đợi Chúa con, như đất héo khô, khát mong mà không gặp nước.
Con cũng mong được chiêm ngưỡng thiên nhan ở thánh đài, để nhìn thấy quyền năng và vinh quanh của Chúa. Vì ân tình của Ngài đáng chuộng hơn mạng sống, miệng con sẽ xướng ca ngợi khen Ngài…
Phải chăng, được Lời Chúa mách bảo, các ngôn sứ và các bậc hiền nhân quân tử thời xưa đã nghiệm thấy rằng: các bậc đế vương cùng những đế quốc hùng mạnh như Ba Tư, Ai Cập, Babylon, Hy Lạp, Rôma… rồi sẽ qua đi, sẽ “biến tan như cơn gió thoảng qua, như cỏ nội hoa đồng…”. Vì thế, ai đặt niềm tin, niềm hy vọng của mình trên “điểm tựa” là những thực tại hão huyền và chóng tàn đó sẽ thất vọng. Vì thế, điều cốt yếu đó chính là “đặt cược” cuộc sống, niềm tin yêu hy vọng vào chính Thiên Chúa và sự khôn ngoan trường cửu của Ngài, như cách cảm nhận và cũng là lời dạy của tác giả sách Khôn Ngoan: “Sự khôn ngoan sáng tỏ, và không bao giờ lu mờ, những ai yêu mến nó, sẽ xem nó dễ dàng, và những ai tìm kiếm nó, sẽ gặp được nó. Nó sẽ đón tiếp những ai khao khát nó, để tỏ mình ra cho họ trước. Từ sáng sớm, ai tỉnh thức tiến lại gần nó, sẽ không lao nhọc, vì sẽ gặp nó ngồi nơi cửa nhà mình. Vậy tưởng nhớ đến nó là được khôn sáng vẹn tuyền; và ai tỉnh thức vì nó, sẽ chóng được an tâm” (Bđ 1).
Thế nhưng, không phải thời nào, lúc nào dân Chúa cũng đều có chọn lựa “Khôn Ngoan” như thế. Bằng chứng là vào thời Chúa Giêsu, khi xã hội Do Thái bị phân mảnh dưới ách thống trị của Rôma cùng với những cám dỗ đầy hấp dẫn của nền văn hóa thời thượng Hy Lạp, thì sự khôn ngoan mà người ta chọn lựa thường xuyên lại “ngã” về hướng con người, lối trần tục… mà ở đó chính là: chấp nhận cúi đầu trước quyền lực con người thay vì khiêm tốn suy phục Thiên Chúa, chọn lựa sự đảm bảo nơi của cải và giàu sang vật chất thay vì sự khôn ngoan và những giá trị thần linh, chấp nhận ma mánh và thủ thuật của sự gian dối thế gian thay cho việc thực thi lề luật ngàn đời của Giao ước thánh, lề luật của sự tự do trong đời sống con cái Chúa… ; và phải chăng, đó là sự chọn lựa mà người ta dễ dàng chứng kiến qua các diễn biến phức tạp trong cuộc chạy đua tới Toà Bạch ốc của hai ứng viên Tổng Thống đại diện cho hai đảng Cọng Hoà và Dân Chủ trong những ngày “nước rút” nầy !
Thật vậy, thời đó, những người Pharisiêu rao giảng và sống theo một thứ khôn ngoan “giả hình và kiêu ngạo” dựa trên những thứ luật lệ không dẫn đến Thiên Chúa mà cũng chẳng phục vụ con người; riêng nhóm Sa-đốc lại chọn lựa sự khôn ngoan chính là “thiên đàng tại thế” với nhu cầu vật chất và điểm tựa quyền lực chính trị…; trong khi đa phần dân đen khố rách áo ôm thì như “bèo dạt mây trôi”, chẳng biết phải nghe theo tiếng nói, lời dạy của sự khôn ngoan đích thực nào, của vị “rabbi” nào “đủ tâm và đủ tầm” để dạy dỗ, thuyết phục…
Và Thiên Chúa đã không để Dân Ngài phải đợi chờ quá lâu. Ngài đã sai Con Một đến không chỉ soi sáng cho con người những bước đi, những lộ trình ngay nơi cuộc hành lữ dưới thế gian nầy, mà còn dẫn lối đưa đường để nhân loại tiến bước vào quê hương vĩnh cửu.
Thật vậy, nếu con đường “Bát Phúc” và những lời dạy xa gần về việc thực thi giới răn “mến Chúa yêu người” mà chúng ta đã được “giải trình” trong suốt cuộc hành trình của Năm Phụng vụ, thì trong Chúa Nhật sắp kết thúc nầy, Tin Mừng muốn hướng niềm tin và hy vọng của chúng ta đến chân trời “cánh chung”, đến biên giới cuối cùng của cuộc đời tại thế để chuẩn bị bước vào “Bàn Tiệc Nước Trời” mà Thánh sử Matthêô đã khéo minh hoạ qua dụ ngôn Tin Mừng “Mười cô trinh nữ”.
Chúng ta có thể nói được rằng: sứ điệp của vị “Rabbi” đến từ Nadarét đã tiếp nối tài tình những lời giáo huấn của các ngôn sứ, đặc biệt, với lời dạy về sự “Khôn Ngoan” đích thực. Thật vậy, bài học Khôn Ngoan, theo ẩn dụ của Đức Kitô trong Tin Mừng hôm nay, đó là biết hướng về tương lai chung cuộc để đón gặp “Tân Lang” với “đèn dầu nghiêm túc” là hành trang của thiện lương, thánh đức…, như “5 cô thiếu nữ phù dâu với đèn cháy sáng trên tay hân hoan vào dự tiệc cưới”.
Cuộc hành trình đức tin của người Kitô hữu luôn là cuộc lên đường tiến về cùng đích cuộc đời, tiến về quê hương vĩnh cửu. Cuộc hành trình đó, trong ngôn ngữ của dụ ngôn Tin Mừng hôm nay, chính là “sự tỉnh thức đợi chờ của những người thiếu nữ khôn ngoan cầm đèn đi đón tân lang”. Thế nhưng, đợi chờ nào cũng bao hàm tình yêu trong đó, bởi vì con người chỉ hết lòng đợi chờ mong mỏi người nào hay điều gì mình hết lòng yêu thương hay quý chuộng.
– Người mẹ chờ đợi đứa con sắp ra đời bằng tất cả sự “nôn nóng của tình mẫu tử” được thể hiện qua cách chuẩn bị tất cả những gì cần thiết để bao bọc săn sóc đứa con rứt ruột của mình.
– Người vợ mong đợi chồng trở về từ chiến tuyến với tình yêu thuỷ chung son sắt và chỉn chu trong bổn phận của người vợ, người mẹ… để mái ấm gia đình luôn hồng lên ngọn lửa hạnh phúc lứa đôi.
– Người cha già mong đứa con phiêu bạt trở về trong mối tình “phụ tử tình thâm” để không đứa con nào phải ra đi hay bị loại trừ khỏi vòng tay nhân ái bao dung…
Vâng, đó chính là “sự lựa chọn khôn ngoan” cho cuộc hành trình tiến về vĩnh cửu, một lựa chọn của một niềm xác tín và đầy lòng trông cậy rằng: ở cuối đường cuộc sống tại thế, người ta sẽ gặp được một Nước Trời hạnh phúc đang mở cửa đón đợi, một “vị Quân vương đang thết tiệc đợi chờ”, một “Đấng Tình Quân” là Đức Kitô đang mở rộng vòng tay dìu đưa “người bạn thiết” vào địa đàng hạnh phúc…
Đây chính là một “chọn lựa khôn ngoan” hay một “niềm cậy trông vững vàng” mà Thánh Phaolô đã ân cần khuyến dụ cộng đoàn Thêxalônia cách đây gần hai mươi thế kỷ nhưng vẫn còn mang tính thời sự với chúng ta hôm nay: “Anh em thân mến, chúng tôi chẳng muốn để anh em không biết gì về số phận những người đã an nghỉ, để anh em khỏi buồn phiền như những người khác, là những kẻ không có niềm hy vọng. Vì nếu chúng ta tin Đức Giêsu đã chết và đã sống lại, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Đức Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người”.
Sứ điệp đó, giáo lý đó, đâu chỉ là một học thuyết suông ! Trên cuộc hành trình gần 2000 năm của Hội Thánh lữ hành, đã có biết bao nhiêu “cô trinh nữ khôn ngoan” đã sống trọn vẹn sự tỉnh thức và đợi chờ cuộc hội ngộ tình yêu đầy ấn tượng: Thánh Nữ Tiến Sĩ Têrêsa Avila mấp máy nói lên với Chúa trước khi tắt thở: “Lạy Chúa Giêsu, này là giờ chúng ta gặp nhau”; trong khi chị Thánh Têrêsa Giêsu Hài đồng than thở: “Lạy Chúa, con… yêu mến Chúa”, đôi mắt xuất thần nhìn thẳng vào một điểm trên pho tượng Đức Mẹ, mặt tươi tắn, rồi nhắm mắt ra đi, đồng hồ chỉ 7 giờ 20 phút tối 30 tháng 9 năm 1897. “Những người trinh nữ” ấy đã cầm đèn cháy sáng ra đón Chúa và gặp gỡ “người tình lang” muôn thuở…
Tóm lại, vào những ngày gần kết thúc năm phụng vụ, sứ điệp Lời Chúa mời gọi chúng ta sống đức “Trông cậy” một cách vững vàng, chọn lựa Thiên Chúa và sự khôn ngoan đích thực bằng chính một cuộc đời luôn tỉnh thức để toả sáng nhân đức “mến Chúa yêu người”, để sống động thực hành con đường Bát Phúc, để tín trung nghiêm giữ những lề luật của Giao ước.
Và sự chọn lựa gần nhất, căn bản nhất, sự chọn lựa “về đích” khôn ngoan và đích thực nhất của bây giờ và hôm nay, đó chính là “sắp sẵn với ngọn nến trên tay” để đi vào Bàn Tiệc Đức Ki-Tô đang mở cửa đón mời: “Ai ăn thịt và uống máu tôi, sẽ được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết” (Ga 6, 54).
Lm Trần Bình Trọng
Nhiều hình ảnh khác nhau về nước Thiên Chúa, cũng gọi là nước Trời, hay nước Thiên đàng được Chúa Giê-su dùng để giảng dạy về nước hằng sống.
Nước Thiên Chúa được sánh ví và giải thích bằng những dụ ngôn như: dụ ngôn cỏ lùng, dụ ngôn hạt cải, dụ ngôn men trong bột, dụ ngôn kho báu và ngọc quí, dụ ngôn chiếc lưới, dụ ngôn người mắc nợ không biết thương xót, dụ ngôn thợ làm vườn nho, dụ ngôn hai người con, phúng dụ những tá điền sát nhân và dụ ngôn tiệc cưới.
Hôm nay nước Trời được ví như mười cô trinh nữ cầm đèn đi đón chàng rể, trong đó có năm cô khờ dại và năm cô khôn ngoan. Năm cô khờ dại đem đèn mà không đem dầu dự trữ. Còn năm cô khôn ngoan sửa soạn đem thêm dầu với đèn (Mt 25:3-4). Theo sử sách ghi lại, đám cưới Do thái thời bấy giờ thường tổ chức vào lúc mặt trời lặn khi bắt đầu ngày mới và họ ăn cưới rất tưng bừng, kéo dài cả mấy ngày. Tuy nhiên đám cưới hôm nay còn những chuyện lòng thòng chưa giải quyết xong như về sinh lễ và của hồi môn giữa hai gia đình dâu rể cho tới nửa đêm. Do đó chàng rể rước dâu về trễ mà các cô khờ dại không ngờ.
Khi được loan báo là chàng rể tới trễ, các cô đều chỗi dậy sửa soạn mang đèn ra đón chàng rể. Thấy đèn hết dầu, các cô khờ dại bèn xin các cô khôn ngoan cho vay chút dầu. Sợ không đủ dầu cho đèn của mình, nên các cô khôn ngoan không dám chia sẻ. Kết quả là khi các cô khờ dại đi mua dầu, thì chàng rể tới, cùng với các cô khôn ngoan vào phòng tiệc cưới và cửa được đóng và chốt then lại. Còn các cô khờ thì bị kẹt, đứng ngoài chầu rìa. Lỗi lầm của các cô khờ dại không phải là thiếp ngủ, vì các cô khôn ngoan cũng ngủ, nhưng là thiếu sửa soạn dầu, thiếu dự tính và thiếu óc phòng xa.
Dầu trong Kinh thánh tượng trưng cho ân huệ của Giavê Thiên Chúa, được xức trên người Chúa chọn, mà Thánh kinh gọi là dầu tấn phong (Lv 8:12; 1 Sm 10:l; 16:13). Ðèn không có dầu thì vô dụng. Nói theo nghĩa bóng, tâm hồn không có ơn thánh, là tâm hồn khô héo và cằn cỗi. Người ta có thể trách cứ các cô khôn ngoan là ích kỷ vì đã không cho các cô khờ dại vay dầu để cùng vào phòng cưới đón tiếp chàng rể. Tuy nhiên việc sửa soạn đi ăn cưới: cần đem theo bao nhiêu dầu là tùy thuộc vào dự tính của mỗi người. Dầu cần cho đèn để dự tiệc cưới nước Trời là ơn nghĩa với Chúa. Việc vào nước Trời không phải là việc vay mượn, đổi chác. Người ta có thể nhắc nhở cho người khác sửa soạn dầu tâm hồn để dự tiệc cưới nước Trời, chứ không thể làm thay thế họ được.
Khôn ngoan theo nghĩa Thánh kinh Cựu ước có liên quan tới niềm tin vào Ðức Giavê. Theo sách Châm ngôn thì khôn ngoan, mặc dầu học được bằng kinh nghiệm và truyền tụng, cuối cùng cũng là ân huệ Chúa ban (Cn 2:6). Do đó mà sách Châm ngôn còn dạy: Kính sợ Thiên Chúa là bước khởi đầu của sự khôn ngoan (Cn 1:7). Còn Thánh kinh Tân ước nói về sự khôn ngoan của Chúa hài nhi như sau: Còn Ðức Giêsu ngày càng thêm khôn ngoan (Lc 2:52). Và sau này người hàng xóm láng giềng ngạc nhiên hỏi nhau về Ðức Giêsu Nadarét: Bởi đâu ông ta được khôn ngoan và làm được những phép lạ như thế (Mt 13:54)? Theo họ, ông chỉ là con bác thợ mộc Giuse và bà Maria nội trợ và không được đi học tại trường đào tạo làm thầy Ráb-bi, mà sao ông ta được như vậy?
Bài trích sách Khôn ngoan hôm nay đề cao sự khôn ngoan như một bảo đảm cho hạnh phúc nước Trời: Ðể tâm suy niệm về Ðức Khôn ngoan là đạt được sự minh mẫn vẹn tuyền. Ai thức khuya dậy sớm để tìm Ðức Khôn ngoan thì sẽ mau trút được mọi lo âu (Kn 6:15). Ðức khôn ngoan dạy năm cô trinh nữ mang dầu dự trữ cho đèn. Ðức Khôn ngoan được thánh Phaolô đề cập đến trong thư gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca bằng việc tin vào Ðức Kitô đã từ cõi chết sống lại và còn cho người đã an giấc trong Ðức Kitô cũng được vào nước Trời: Nếu chúng ta tin vào Ðức Kitô phục sinh, thì cũng vậy, những người đã chết nhờ Ðức Kitô, Thiên Chúa sẽ đem họ đến làm một với Người (1Tx 4:14). Xưa kia ở xã hội Việt Nam, người ta trọng chữ trinh của người con gái trước khi cưới hỏi, nên mới có câu tục ngữ: Khôn ba năm, dại một giờ. Vì dại một giờ mà hôn nhân của cô dâu mới cưới bị hủy bỏ và không còn hi vọng có đám cưới thứ hai. Cũng vậy, để dự tiệc cưới nước Trời, người ta cũng phải cẩn thận canh chừng về đời sống thiêng liêng, kẻo lỡ ra không còn đủ thời giờ và cơ hội để mà học khôn chăng?
Tiệc cưới của hoàng tử ám chỉ bữa tiệc nước Trời, khi mà người tín hữu được gọi ra khỏi đời này, để đến dự tiệc nước Trời. Mười cô trinh nữ ám chỉ toàn thể dân Chúa, giáo sĩ, tu sĩ nam nữ cũng nhu giáo dân: đàn ông, đàn bà, già trẻ, lớn bé. Muốn được liệt kê vào sổ các cô trinh nữ khôn ngoan, ta phải sửa soạn linh dược thiêng liêng, chờ ngày Chúa sai thiên thần đến gọi ta ra khỏi thế gian để đối diện trước toà phán xét. Tuy nhiên không ai biết được ngày giờ Chúa gọi, không biết được bệnh tật, tai nạn, thiên tai sẽ đến thế nào?
Việc chàng rể đến vào nửa đêm nói lên tính cách bất thần của ngày giờ Chúa gọi vì Chúa không làm hẹn. Ðợi đến giờ chót mới đi mua dầu dự tiệc cưới là việc quá trễ cho các cô khờ dại, thì cũng có thể là việc quá trễ cho người tín hữu nào, đợi tới giờ phút cuối cùng mới tính sổ nhà linh hồn với Chúa. Như vậy dự định để tính sổ nhà linh hồn vào giờ phút chót là thiếu khôn ngoan. Ta có thể nghe người nọ, người kia nói: Ngày đó họ sẽ hoà giải với Chúa qua bí tích Cáo giải và làm lại cuộc đời. Tiếc rằng ngày đó có thể không xẩy ra vì người ta đã ra đi vĩnh viễn trước ngày đó.
Vậy thì trong khi trông đợi ngày mở tiệc cưới nước Trời – là ngày phán xét – ta cần tỉnh thức, dự phòng, kiên nhẫn và sẵn sàng chờ đợi như Phúc âm dạy, không thể thờ ơ mà quên chuẩn bị dầu đèn cho tâm hồn, là sống trong ơn nghĩa với Chúa.
Lời cầu nguyện xin cho được liệt kê vào số năm cô trinh nữ khôn ngoan:
Lạy Chúa là Ðấng khôn ngoan thượng trí.
Cũng như năm cô trinh nữ khôn ngoan sửa soạn dầu đèn,
xin dạy con biết dự phòng, tỉnh thức
và sẵn sàng sửa soạn dầu đèn cho tâm hồn,
kẻo khi Chúa gọi con bất thình lình ra khỏi đời này
mà tâm hồn con thiếu dầu là thiếu ơn nghĩa với Chúa chăng?
Và xin cho con được liệt kê vào sổ
năm cô trinh nữ khôn ngoan được vào dự tiệc cưới. Amen.
Lm Nguyễn Minh Hùng
Tin Mừng theo thánh Matthêô nhiều lần cho thấy, thánh nhân sử dụng phương pháp đối kháng trong cách viết của mình để gây chú ý. Chẳng hạn: lúa tốt – cỏ lùng; chiên – dê; nhà xây trên đá – nhà xây trên cát…
Dụ ngôn hôm nay, thánh nhân cũng cho thấy sự đối khán ấy trong lời dạy của Chúa Giêsu: khôn ngoan – thiếu khôn ngoan; người biết chuẩn bị – người không lo chuẩn bị; người được dự tiệc cưới – người bị khước từ dự tiệc.
Bằng lối so sánh, thánh nhân muốn làm nổi bật hai chiều kích trái nghịch nhau, mâu thuẫn nhau: Người khôn ngoan luôn biết chuẩn bị sẵn sàng cho đời mình để vào hưởng phúc của Chúa – Ngược lại, sự thiếu khôn ngoan của những ai không biết chuẩn bị, sẽ nên vô phúc, sẽ bị khước từ tham dự hạnh phúc ấy.
Hạnh phúc Nước Trời là được sống chính sự sống đời đời của Thiên Chúa. Chuẩn bị đầy đủ để vào Nước Trời (biểu trưng là tiệc cưới của chàng rể) là biết sống công chính, giữ luật Chúa, yêu Chúa, trung thành với lòng mến mà bản thân dành cho Chúa, yêu anh chị em, sẵn sàng tha thứ, bác ái, tương trợ, quan tâm lẫn nhau… Tất cả những điều ấy là con đường của khôn ngoan, của hạnh phúc sẽ dẫn tới sự sống trong Chúa.
Ngoại trừ những ai sống bê tha, không biết lo cho linh hồn mình, không biết chuẩn bị cho ngày giờ Chúa gọi. Còn tất cả mọi Kitô hữu không ngoan đều hiểu rằng: Cuộc đời mỗi Kitô hữu dù đang nơi dương thế, vẫn hướng về và chờ đợi ngày về cùng Thiên Chúa, khác nào cuộc nghinh đón chàng rể.
Chàng rể mà mỗi Kitô hữu đang trông đợi chính là Chúa Kitô. Người cũng là thẩm phán xét xử từng con người, sau khi họ được Người đến và mang đi.
Tin Mừng cho biết chàng rể sẽ “đến chậm”, nghĩa là Chúa sẽ đến vào lúc không ai ngờ. Đó là giờ chết của mỗi chúng ta.
Sau khi chàng rể đến, cửa sẽ đóng lại. Cuộc đời trên dương thế của mỗi người cũng đóng lại trong ngày Chúa gọi rời bỏ sự sống hiện tại này.
Ý nghĩa thiêng liêng của hình ảnh “chàng rể đến và cửa sẽ đóng”, đó là: người ta chỉ chết một lần, không có cơ hội làm lại cuộc đời nếu đã không có sự chuẩn bị. Vậy hãy như năm cô trinh nữ khôn ngoan, mỗi người cần chuẩn bị hành trang cho ngày giờ Chúa đến gọi đích danh mình.
Nếu ngay bây giờ, ta biết để cho sứ điệp của dụ ngôn lắng sâu vào hồn mình, thấm vào trí nhớ mình, chắc chắn ta sẽ gặp gỡ Chúa, sống cùng Chúa, ở kề bên Chúa trong từng phút giây, từng hoạt động, từng công tác, từng suy tư của ta…
Đã có Chúa sống trong ta luôn luôn, thì nếu có chết, cái chết chỉ là sự nối dài của cuộc gặp gỡ thân tình với Chúa, hay chỉ là cuộc gặp gỡ Chúa ở dạng thức khác mà thôi.
Hãy nhớ, người không ngừng gặp gỡ Chúa là người tỉnh thức và khôn ngoan. Họ đang sống chính lời mà Chúa dạy hôm nay: “Các ngươi hãy tỉnh thức, vì các ngươi không biết ngày nào, giờ nào”.
Ai khôn ngoan và tỉnh thức, dù các chết ập đến bất cứ lúc nào, vẫn không là chết bất ngờ. Ai để cho mình có cuộc gặp gỡ dành cho Chúa luôn luôn, sẽ là người luôn nắm giữ bình an trong giây phút hiện tại, sẽ không sợ hãi trong giờ chết, và trong giờ trình diện trước tòa Chúa.
Còn sống ngày nào trên dương thế, là vẫn còn thời gian để tỉnh thức, để chuẩn bị, để sống “khôn”. Hãy chuẩn bị cho thật đầy đủ dầu đèn là mọi thứ cố gắng nhằm thanh tẩy mình, ăn năn thú tội, xưng tội, lãnh nhận các bí tích khác và quyết tâm chừa tội, quyết tâm thực thi đức bác ái, thực thi lòng từ tâm với mọi anh chị em…
Chỉ có sống khôn, mới có cái chết thiêng mà thôi…
Lm. Antôn Phạm Trọng Quang, SVD
Tôi xin bắt đầu bài suy niệm này bằng việc giải thích cấu trúc của từ Triết học. Triết học, tiếng Anh viết là philosophy. Từ này đến từ tiếng Hy Lạp gồm hai từ kết hợp lại, đó là philo, tức là yêu mến; và sophia, nghĩa là sự khôn ngoan. Như vậy, triết học có nghĩa là yêu mến sự khôn ngoan hay đi tìm sự khôn ngoan. Môn triết học đưa ta đi tìm hiểu những gì liên quan đến đời sống của con người và vũ trụ, không chỉ có giới hạn ở cuộc sống hiện tại mà đề cập đến những gì xảy ra trong quá khứ và ngay cả trong tương lai. Triết học không chỉ có đặt câu hỏi về một thực trạng thuộc trần gian mà cả đến cuộc sống mai sau của con người.
Những câu hỏi mà các triết gia thường đưa ra, đó là “Thiên Chúa có tồn tại hay không?” “Con người là ai, con người có nguồn gốc từ đâu và sẽ đi về đâu? “Con người có khả năng nhận biết hay không, căn cứ vào đâu để con người nhận biết sự thật?” “Sự thật là gì, sự thiện được hiểu như thế nào, làm sao con người có thể trở nên một người tốt?” “Con người có tương quan như thế nào với nhau, với môi trường và với Thượng Đế?”
Đây là kho tàng của sự khôn ngoan mà môn triết học có ý muốn giúp con người đạt đến. Tuy nhiên, nghịch lý thay môn triết học trong các nhà trường ngày hôm nay thường bị coi nhẹ. Sinh viên thời nay chỉ muốn chọn những môn học nào có liên quan đến sở thích của mình và họ cho là có ích cho nghề nghiệp tương lai. Hay nói cách họ chỉ chọn những môn học liên quan đến các lĩnh vực kinh tế, kỷ thuật, thương mại, y học… chứ ít ai muốn chịu khó dành thời gian nghe và bàn thảo những chủ đề về sự khôn ngoan.
Thật không ngoa khi ta nhận xét rằng con người thời nay đang thờ ơ với việc yêu mến và tìm kiếm sự ngoan mặc dầu họ biết sự khôn ngoan theo cách hiểu của các triết gia và thần học gia rất cần thiết cho họ. Nói cách khác họ chỉ muốn tìm kiếm sự “khôn ngoan” nào nhằm giúp họ khi ra trường có được việc làm và kiếm được nhiều tiền. Còn những đề tài “Thiên Chúa có tồn tại hay không, con người là ai, làm sao để trở thành người tốt, có sự sống sau khi chết hay không..,” thì họ chẳng màng quan tâm.
Còn đối với người Công Giáo, tháng 11 là tháng cầu nguyện cho các linh hồn, nên chúng ta có cơ hội để suy niệm về chiều sâu của cuộc đời, cụ thể hơn về cái chết, về đời sống mai hậu, để tìm xem chúng ta cần có thái độ như thế nào để chuẩn bị đón nhận cái chết mà không ai có thể chạy trốn. Dĩ nhiên Hội thánh không muốn chúng ta phải chìm đắm trong một cảm giác đau buồn hay nơm nớp sợ hãi về cái chết, nhưng Hội thánh muốn ta luôn sẵn sàng nhìn vào sự chết với thái độ lạc quan và hy vọng, nhìn về một thời khắc quan trọng sẽ đến với mỗi người chúng ta. Vậy làm sao để chúng ta có được sự sẵn sàng đó?
Trong cuốn sách Đường Hy Vọng, Đức Hồng Y Phanxicô Saviê Nguyễn Văn Thuận có kể một câu chuyện như sau: khi một đám trẻ đang vui chơi dưới sân, một giáo viên đến hỏi các em bé rằng: “Nếu trong vòng 5 phút nữa các con chết, các con sẽ làm gì?” Một em trả lời một cách rất tỉnh táo: “Con sẽ vào nhà thờ cầu nguyện.” Em khác lại hối hả thưa: “Con sẽ đi xưng tội…” Cuối cùng một em bé hết sức điềm tĩnh trả lời: “Con-sẽ-tiếp-tục-vui-chơi.” Vâng, đó là câu trả lời của thánh Luy Gonzaga. Câu trả lời này khiến chúng ta cảm thấy hết sức bất ngờ và rất ưng ý, bởi nó mang một ý nghĩa thật là quan trọng, đó là chúng ta cần có cảm giác tự tại và tinh thần sẵn sàng trước mọi tình huống của cuộc sống ngay đến cái chết. Nếu chúng ta luôn chuẩn bị sẵn sàng thì đứng trước cái chết không có lý do gì khiến chúng ta sợ hãi cả.
Thật vậy, sẵn sàng chu toàn mọi công việc là sự khôn ngoan để chúng ta luôn vâng theo ý Chúa trong mọi hoàn cảnh mà mọi biến cố của cuộc sống. Như dụ ngôn mà Chúa dùng để cảnh tỉnh chúng ta hôm nay, dụ ngôn về 10 cô gái được mời đi đón Tân lang để vào dự tiệc. Tuy nhiên, trong mười cô gái đó, chỉ có 5 cô, khi ra đi biết chuẩn bị đèn và đổ đầy dầu. Vì thế khi chàng rể đến họ cầm đèn cháy sáng trên tay để đón chàng rể và hân hoan đi vào dự tiệc. Chúa gọi họ là những cô trinh nữ khôn ngoan. Còn 5 cô gái khác, ra đi dự tiệc cưới, mang theo đèn nhưng không đổ dầu cho đầy bình. Hôm đó chàng rể lại đến muộn, họ không có đủ dầu, vội vã đi xin dầu, nhưng không ai cho vì không ai cho. Oái ăm thay họ đã luống cuống chạy đi xa để mua, nhưng khi trở về, vì đã quá muộn, nên họ đã bị từ chối. Kinh thánh gọi họ là những cô khờ dại.
Bạn thân mến, cuộc đời chúng ta là một chuỗi những lựa chọn. Chúng ta cần chọn và yêu mến sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Lắng nghe lời Chúa dạy và đem Lời Ngài ra thực hành trong cuộc sống là một thái độ hết sức khôn ngoan của chúng ta. Chúa dạy chúng ta phải biết tỉnh thức và sẵn sàng chuẩn bị tâm hồn. Hằng ngày không phải chỉ có biết đâm đầu vào công việc, kiếm tiền, mà quên đi chuẩn bị tâm hồn thật sốt sắng để sẵn sàng đi đón Chúa. Vì giờ phút thiêng liêng đó có thể đến rất bất ngờ, đến bất cứ lúc nào không ai biết.
Hạnh phúc thay cho chúng ta khi luôn tỉnh thức đợi chờ và cầm đèn cháy sáng trong tay để ra đón Chúa. Xin đừng để tâm hồn chúng ta ra ô uế, mê muội chạy theo sự khôn ngoan của trần thế mà đánh mất linh hồn. Và xin cho chúng ta luôn biết tìm đến sự khôn ngoan của Thiên Chúa, chuẩn bị sẵn tâm hồn, để khi nghe tiếng Chúa gọi, chúng ta mau mắn đáp lại: “Lạy Chúa, này con đây” (Tv 39, 8).
Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương
Trong những Chúa Nhật cuối cùng của năm phụng vụ, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy niệm về những diễn từ cánh chung được trình bày trong Tin Mừng Mátthêu (từ chương 24-25). Đây là năm diễn từ cuối cùng về cánh chung. Mỗi Chúa Nhật là một dụ ngôn: Chúa nhật hôm nay bắt đầu dụ ngôn mười trinh nữ, Chúa Nhật tới là dụ ngôn những nén bạc, Chúa Nhật cuối cùng là phán xét chung.
Để chú giải dụ ngôn “mười cô trinh nữ đi đón chàng rể,” chúng ta cần chú ý đến điểm giống nhau và khác nhau của những cô trinh nữ. Hai yếu tố này làm nên sự hấp dẫn và ý nghĩa của dụ ngôn.
1- Điểm giống nhau giữa các trinh nữ
Quả thế, trong dụ ngôn các trinh nữ có những điểm tương đồng đó là: Họ đều đi đón chàng rể, họ đều mang đèn đi (x. Mt 25, 1-5). Điều này cho phép chúng ta suy tư về một khía cạnh chính yếu của đời sống Kitô hữu – đó là chiều kích cánh chung, nghĩa là cuộc sống Kitô hữu là một hành trình đón chờ Chúa và chúng ta hy vọng sẽ gặp Người. Điều này giúp chúng ta trả lời cho câu hỏi muôn thủa: Chúng ta là ai và chúng ta sẽ đi về đâu?
Kinh Thánh nói rằng chúng ta chỉ là những người lữ hành khi sống trên trần gian này. Thánh Phêrô trong thư I nhắc nhở chúng ta rằng: “Anh em là khách lạ và lữ hành” (x. 1 Pr 2,11), khi “sống cuộc đời lữ hành này” (x. 1 Pr 1,17). Quả thế, trần gian là quán trọ, là chốn lưu đày, là đò qua sông, hay là nơi tạm trú tạm bợ như được diễn tả: “Con chim ở trọ cành tre, con cá ở trọ trong khe suối nguồn, tôi nay ở trọ trần gian, trăm năm về chốn xa xăm cuối trời” (Trịnh Công Sơn). Đời sống của người Kitô hữu trên trần gian là một cuộc đời lữ hành tiến về nhà Cha trên trời. Chúng ta không có một nơi nào cố định ở trần gian, nhưng là hướng về tương lai vĩnh cửu là Nước Trời (x. Hr 13,14). Vì thế, các Kitô hữu ở “trong thế gian, nhưng không thuộc về thế gian” (x. Ga 17,11.16). Quê hương đích thực và vĩnh cửu của con người là ở trên trời, chúng ta chờ đợi Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ sẽ đến (x. Pl 3,20).
Theo lịch sử cho biết các Kitô hữu đầu tiên nghĩ rằng Chúa Giêsu sắp trở lại với họ lần thứ hai, nên họ chỉ tập trung vào việc đón chờ Chúa đến. Từ thế kỷ II, cùng với quan niệm rằng: “Tự bản chất, con người là một lữ khách trên trần gian” (thư gửi cho Diogenes), người ta còn quan niệm thế gian là thế giới của tội lỗi, và vì thế, họ không đòi hỏi phải dấn thân xây dựng thế giới này qua các bổn phận trần thế như trong hôn nhân gia đình, trong công việc làm ăn, trong đất nước họ sống. Vì họ cho rằng những điều đó không có gì thuộc về Kitô giáo. Thời đó, người tín hữu quan niệm rằng: “Kết hôn như mọi người chỉ để sinh con cái, chứ chúng không có ích lợi gì cả.” Cách hiểu về “thân phận lữ hành” mang ý nghĩa cánh chung, chứ không theo ý nghĩa hữu thể học. Nghĩa là người Kitô hữu nhận mình là kẻ lữ hành từ ơn gọi, chứ không phải từ bản tính. Dầu họ được tiền định để sống cho một thế giới khác và thế giới đó là nơi họ xuất phát. Ý thức Kitô giáo về kiếp lữ hành dựa trên nền tảng sự phục sinh của Chúa Kitô: “Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Kitô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa” (Cl 3,1). Đó là lý do tại sao người Kitô hữu không bác bỏ sự sáng tạo trong sự thiện hảo nền tảng của nó.
Thời gian sau này, việc tái khám phá vai trò và sự dấn thân của người Kitô hữu trong thế giới đã giảm nhẹ ý nghĩa cánh chung, và dường như người ta lại im lặng không nói nhiều về những sự sau: đó là chết, phán xét, hỏa ngục và thiên đàng. Tuy nhiên, sự chờ đợi Chúa trở lại đượm chất Tin Mừng hơn. Theo đó, khi hướng về thiên đàng không cho phép sao nhãng bổn phận dấn thân cho tha nhân, hơn thế, còn thánh hóa bổn phận này. Các Kitô hữu được dạy rằng phải “biết phán xét với sự khôn ngoan những điều tốt lành ở trần gian, khi chúng ta hướng về những điều tốt lành trên trời.” Thánh Phaolô, sau khi nhắc nhở các tín hữu rằng “thời giờ vắn vỏi,” kết luận: “Vậy bao lâu còn thời giờ, chúng ta hãy làm điều thiện cho mọi người, nhất là cho những anh em trong cùng đại gia đình đức tin” (Gl 6,10).
2- Những điểm khác biệt giữa các trinh nữ
Với tiến trình nhận thức trên, giờ đây, chúng ta chuyển sang những điểm khác biệt giữa các cô trinh nữ trong dụ ngôn: Quả thế, năm cô được gọi là khôn ngoan, thì đem đèn và đem dầu theo, khi chàng rể đến muộn, họ tỉnh dậy và sẵn sàng để ra đón chàng rể. Còn năm cô được gọi là khờ dại, vì họ mang đèn mà không mang dầu theo, khi chàng rể đến, họ phải đi mua dầu, khi trở về, thì không thể vào dự tiệc cưới. Dầu là yếu tố tạo nên sự khác biệt giữa họ (x. Mt 25,1-13).
Thánh Augustinô giải thích: những cô khờ dại là biểu tượng con người tự nhiên, chưa được ân sủng biến đổi. Còn những cô khôn ngoan biểu tượng của con người đã được ân sủng biến đổi. Chi tiết dụ ngôn về năm cô khôn ngoan không chia sẻ dầu hay giúp đỡ gì cho những cô khờ dại xem ra họ là người ích kỷ và không muốn giúp người khác. Điều này không cho phép chúng ta hiểu như thế. Ở đây, dụ ngôn chỉ muốn diễn tả rằng vào lúc giờ sau hết, người khác không thể thay thế chúng ta lo phần rỗi mình được, mỗi người phải tự chịu trách nhiệm cho chính mình, nếu không sẽ bị loại ra ngoài. Đây là những bổn phận không thể thay thế. Không có cơ hội để thay thế. Nên phải luôn sẵn sàng và chuẩn bị đầy đủ.
Hình ảnh đèn là biểu tượng của đức tin, còn dầu là biểu tượng của đức ái. Nếu đức tin không có đức ái thì như đèn không có dầu và không thể thắp sáng lên được. Cũng như các trinh nữ, để đi đón chàng rể, họ phải có đèn, dầu và lòng khao khát gặp gỡ, cũng thế, để đi đón Chúa và để gặp Chúa, người Kitô hữu phải có đức tin, đức cậy và đức mến. Đức tin giúp chúng ta tin vào Chúa, nhận biết Chúa là Đấng Cứu Độ của chúng ta. Đức cậy là niềm hy vọng, sự khát khao trông chờ của chúng ta trong cuộc gặp gỡ đó. Và đức ái giúp chúng ta yêu mến Thiên Chúa trên hết mọi sự. Nếu sống cuộc đời lữ hành này mà không có ba nhân đức đối thần, chúng ta giống như những cô trinh nữ khờ dại, đưa đèn đi đón chàng rể mà không mang dầu. Nhưng nếu có ba nhân đức này, chúng ta giống như những cô khôn ngoan, sẽ được gặp Chúa trong ngày sau hết và sẽ được hưởng hạnh phúc thiên đàng với Chúa trên thiên đàng.
Như thế, chờ đợi Chúa trở lại không có nghĩa là chúng ta mong cho được chết sớm, nhưng là tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nghĩa là hướng toàn bộ đời sống của chúng ta vào trong cuộc gặp gỡ Chúa Kitô và biến cuộc gặp gỡ này thành trụ cột của mọi sự chú ý và là biển chỉ đường cho cuộc sống. Khi đó, lúc nào Chúa đến không còn quan trọng nữa, bởi lẽ chúng ta đã luôn sẵn sàng và tỉnh thức để gặp gỡ Chúa rồi. Amen!
DỰ LIỆU, PHÓ THÁC VÀ TỈNH THỨC
An Phong
Bài Tin mừng hôm nay là một dụ ngôn về 5 cô trinh nữ khờ dại và 5 cô trinh nữ khôn ngoan. Các cô khờ dại bị loại khỏi tiệc cưới, vì họ thờ ơ không chuẩn bị thích hợp. Còn các cô khôn ngoan thì được đón nhận vào tiệc cưới.
Người kitô hữu cũng vậy, nếu thờ ơ không chuẩn bị thích hợp, họ cũng sẽ bị loại khỏi bữa tiệc cánh chung của Thiên Chúa.
Cuộc đời vốn là một hành trình đầy bất ngờ; bởi luôn có nhiều điều xảy ra ngoài dự kiến của ta. Sự bất ngờ đôi khi gây thú vị, nhưng cũng lắm lúc làm đớn đau, tan nát… và thường làm cho ta khó hoạch định tương lai một cách chắc chắn. Năm cô trinh nữ khôn ngoan đã biết dự phòng, bằng cách mang dầu theo với đèn; điều đó làm cho các cô có thể ứng xử đúng đắn khi điều bất ngờ xảy đến.
Cuộc đời là một hành trình và khôn ngoan là biết dự liệu tối đa.
Cuộc đời là một cuộc phiêu lưu, có niềm vui, có hạnh phúc; nhưng cũng không thiếu nỗi đau, bất hạnh. Những đau khổ và bất hạnh đó nhiều khi vùi dập con thuyền đời của ta, làm cho ta thất vọng, chán nản. Người kitô hữu cần phải luôn hy vọng đạt đến bến bờ hạnh phúc, để có đủ sức mạnh hoàn tất cuộc hành trình này. Khi nào chúng ta sẽ đạt đến bến bờ hạnh phúc? Chúng ta không biết, cũng như các cô trinh nữ không biết khi nào chàng rể đến. Nhưng chúng ta hy vọng sẽ có ngày toại nguyện, như các trinh nữ biết chắc chàng rể sẽ đến.
Cuộc đời vốn là một bến đợi, và khôn ngoan là biết sống trong hy vọng.
Cuộc đời có quá nhiều khó khăn sẽ dễ làm cho chúng ta chai lì; sự mong đợi lâu ngày có thể làm chúng ta dửng dưng với mọi sự; những khó khăn hằng ngày khiến chúng ta luôn phải tìm cách giải quyết những chuyện trước mắt; và cuối cùng chúng ta có thể lâm vào tình trạng chẳng còn biết mình trông đợi ai, mình hy vọng điều gì, mình sống trên đời để làm gì nữa. Lúc 5 cô khờ dại đi mua dầu, thì chàng rể đã đến; có thể Chúa đến đang lúc chúng ta bận tâm chuyện gì khác chăng?
Cuộc đời là bến mê; và khôn ngoan là biết tỉnh thức.
Để đón nhận Chúa, chúng ta cần biết dự liệu sẵn sàng biết kiên nhẫn hy vọng và biết tỉnh thức sáng suốt.
Lạy Chúa Giêsu,
Chúa đã đến với con trong bí tích tình yêu này
Và Chúa vẫn hằng đến với con trong từng bước cuộc đời của con.
Xin cho con biết tỉnh thức,
để nghe được tiếng bước chân của Ngài.