Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
Tin Mừng (Mc 5,1-20)
1 Đức Giê-su và các môn đệ sang tới bờ bên kia Biển Hồ, vùng đất của dân Ghê-ra-sa.2 Người vừa ra khỏi thuyền, thì từ đám mồ mả, có một kẻ bị thần ô uế ám liền ra đón Người.3 Anh này thường sống trong đám mồ mả và không ai có thể trói anh ta lại được, dầu phải dùng đến cả xiềng xích.4 Thật vậy, nhiều lần anh bị gông cùm và bị xiềng xích, nhưng anh đã bẻ gãy xiềng xích, và đập tan gông cùm. Và không ai có thể kiềm chế anh được.5 Suốt đêm ngày, anh ta cứ ở trong đám mồ mả và trên núi đồi, tru tréo và lấy đá đập vào mình.
6 Thấy Đức Giê-su tự đàng xa, anh ta chạy đến bái lạy Người7 và kêu lớn tiếng rằng: “Lạy ông Giê-su, Con Thiên Chúa Tối Cao, chuyện tôi can gì đến ông? Nhân danh Thiên Chúa, tôi van ông đừng hành hạ tôi! “8 Thật vậy, Đức Giê-su đã bảo nó: “Thần ô uế kia, xuất khỏi người này! “9 Người hỏi nó: “Tên ngươi là gì? ” Nó thưa: “Tên tôi là đạo binh, vì chúng tôi đông lắm.”10 Nó khẩn khoản nài xin Người đừng đuổi chúng ra khỏi vùng ấy.11 Ở đó có một bầy heo rất đông đang ăn bên sườn núi.12 Đám thần ô uế nài xin Người rằng: “Xin sai chúng tôi đến nhập vào những con heo kia.”13 Người cho phép. Chúng xuất khỏi người đó và nhập vào bầy heo. Cả bầy heo -chừng hai ngàn con- từ trên sườn núi lao xuống biển và chết ngộp dưới đó.14 Các kẻ chăn heo bỏ chạy, loan tin trong thành và thôn xóm. Thiên hạ đến xem việc gì đã xảy ra.15 Họ đến cùng Đức Giê-su và thấy kẻ bị quỷ ám ngồi đó, ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo -chính người này đã bị đạo binh quỷ nhập vào. Họ phát sợ.16 Những người chứng kiến đã kể lại cho họ nghe việc đã xảy ra thế nào cho người bị quỷ ám và chuyện bầy heo.17 Bấy giờ họ lên tiếng nài xin Người rời khỏi vùng đất của họ.
18 Khi Người xuống thuyền, thì kẻ trước kia đã bị quỷ ám nài xin cho được ở với Người.19 Nhưng Người không cho phép, Người bảo: “Anh cứ về nhà với thân nhân, và thuật lại cho họ biết mọi điều Chúa đã làm cho anh, và Người đã thương anh như thế nào.”20 Anh ta ra đi và bắt đầu rao truyền trong miền Thập Tỉnh tất cả những gì Đức Giê-su đã làm cho anh. Ai nấy đều kinh ngạc.
(Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch CGKPV)
*******
1. Người bị thần ô uế ám (c. 1-5)
Khi lắng nghe và gặp gỡ Đức Giê-su ngang qua trình thuật Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay, chúng ta được mời gọi tạm gác mọi cách hiểu, thắc mắc, thành kiến, thiếu tin tưởng vào lời Kinh Thánh và ra khỏi hoàn cảnh của mình, để một cách đơn sơ ghi nhớ và hình dung ra người bị thần ô uế ám. Giống như một bức tranh, vấn đề không phải là có thật hay không, giống thật hay không, hoặc còn thiếu quá nhiều tiết cần được thêm vào, nhưng là những hình ảnh được vẽ ra như thế muốn nói với chúng ta điều gì. Tương tự như thế, ngang qua hình ảnh “người bị thần ô uế ám” được kể lại trong bản văn Tin Mừng, Chúa muốn soi sáng tình cảnh của chúng ta như thế nào, mặc khải sự thật nào về con người chúng ta, chữa lành và mở ra cho chúng ta hướng đi nào, con đường nào? Bởi vì, Lời Chúa thuộc bình diện ý nghĩa, liên quan đến những vấn đề nền tảng và sâu sa của con người, chứ không phải sự vật hay sự kiện trần trụi.
Vậy trước hết, chúng ta hãy nhìn ngắm người bị thần ô uế ám: người này không còn làm chủ được mình, anh lẫn lộn chủ thể (anh là anh hay là thần xấu?) khi nói chuyện với Đức Giê-su:
– Anh sống trong đám mồ mả, thế giới của người chết, của sự chết, hiểu rộng hơn là nơi chết chóc. Anh còn sống, nhưng lại tự giam mình trong thế giới của người chết, tự tạo ra một môi trường chết chóc, làm hại người khác và làm hại chính mình.
– Không ai có thể kiềm chế anh ta được: dù có trói lại, bằng xiềng xích cũng không được, bằng gông cùm cũng vô ích. Hình ảnh muốn nói với chúng ta rằng, con người bất lực, vì sự dữ thì mạnh hơn con người.
– Anh tru trếu, nghĩa là đánh mất nhân tính, kêu la như con vật.
– Anh tự hành hạ mình; đó là bạo lực, vốn là đặc điểm sự dữ; bạo lực với người khác, bạo lực với chính mình.
– Tin Mừng theo thánh Luca ghi lại một chi tiết quan trọng: anh không mang y phục; nghĩa là anh không còn thuộc về thế giới của con người, có nhân phẩm và văn hóa.
Nếu chúng ta để cho Sự Dữ, thần ô uế, thần xấu, Tội (“Tội” là một nhân vật theo Rm 7, 13-17) cư ngụ bên trong chúng ta, thúc đẩy chúng ta, làm chủ chúng ta, chúng ta cũng sẽ như thế đó. Lời Chúa trình bày một cách hữu hình những điều vô hình có thật nơi bản thân chúng ta.
Dường như thời xưa, ma quỉ không có nhiều phương tiện, chỗ ẩn nấp hay mặt nạ hóa thân, nên hay ám người ta cách trực tiếp như các Tin Mừng kể lại. Nhưng ngày nay, lối sống của loài người chúng ta đang cung cấp cho ma quỉ quá nhiều phương tiện, chỗ ẩn nấp và mặt nạ hóa thân: tự do cá nhân, toàn cầu hóa, trò chơi, thú vui đủ loại, phương tiện truyền thông, phim ảnh, khoái lạc, bạo lực, gian dối, tiền bạc, danh vọng, hưởng thụ… Vì thế, hơn bao giờ hết, trong hoàn cảnh hiện nay, con người, nhất là người trẻ, dù không bị ma quỉ ám trong thân xác, nhưng còn nghiêm trọng hơn, bị ám trong tâm trí bởi những điều xấu, những năng động xấu thuộc về ma quỉ, đó là lối sống vô trách nhiệm, vô ơn, đam mê phương tiện và thú vui, hưởng thụ, bạo lực, tự do luyến ái, không có khả năng sống giao ước, chiều theo lòng ham muốn, cảm xúc thấp hèn, vô kỉ luật, không có lí tưởng cao quí, mất hướng đi, không thao thức đi tìm ý nghĩa cuộc sống… Cách ma quỉ ám người ta như thế còn nghiêm trọng hơn cả khi dằn vặt thân xác ở bên ngoài, nghĩa là bị quỉ ám trực tiếp như một số trường hợp mà các Tin Mừng kể lại hay như chúng ta thỉnh thoảng vẫn còn nghe nói ngày nay.
Thần ô uế ở đây không chỉ là một tên, nhưng là cả một đạo binh. Vậy những thần ô uế nào đã từng chi phối và làm chủ bản thân tôi? Trong những trường hợp như thế, tôi cảm nhận và hành xử ra sao, tôi chiến đấu như thế nào và tôi có thể chiến thắng được không.
2. Đức Giê-su và thần ô uế (c. 6-8. 18-20)
Người bị quỉ ám chạy đến với Đức Giê-su, nhưng quỉ lên tiếng chứ không phải người bị quỉ ám: “Lạy ông Giê-su, con Thiên Chúa tối cao, chuyện tôi can gì đến ông”. Như thế, ma quỉ muốn thỏa hiệp với Đức Giê-su. Nhưng Đức Giê-su là sự sống chiến thắng sự chết; đó là ý nghĩa của hình ảnh Đức Giê-su vượt qua biển hồ, chiến thắng sóng to gió lớn, vốn là biểu tượng của sự chết (Mc 4, 35, 41). Đức Giê-su đi tới đâu sự chết bị đánh tan đến đó, giống như ánh sáng đánh tan bóng tối: “Thần ô uế kia xuất ra khỏi người này”. Vì thế, thần ô uế không thể đứng vững trước mặt Đức Giê-su.
Đức Giê-su còn là Ngôi Lời sáng tạo. Theo St 1, Lời Thiên Chúa không chỉ sáng tạo từ hư vô, nhưng còn là đưa trật tự vào cõi hỗn mang, phá tan cái tình trạng hàm hồ bằng cách tách ánh sáng khỏi bóng tối, sự sống khỏi sự chết, nhân tính khỏi thú tính. Chúng ta hãy nhìn ngắm người được Đức Giê-su giải thoát khỏi thần ô uế: “ăn mặc hẳn hoi và trí khôn tỉnh táo”. Sự sống và nhân tính của anh được phục hồi, anh được mời gọi trở về với thế giới của người sống, có tương quan và có văn hóa.
Hơn nữa, anh còn được Đức Giê-su trao sứ mạng loan báo tình yêu thương xót của Chúa dành cho anh. Giống như Israel nói với các dân tộc:
Muôn nước hỡi, nào ca ngợi CHÚA,
ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người!
Vì tình Chúa thương chúng tôi thật là mãnh liệt,
lòng thành tín của Người bền vững muôn năm. Ha-lê-lui-a.
(Kinh sáng, Tuần III thứ bảy, Tv 117)
Sứ mạng của anh rất đơn giản, nhưng lại là chính yếu, đó là làm chứng về lòng thương xót của Chúa dành cho anh. Khi nói đến sứ mạng, chúng ta thường hay nghĩ đến những tài năng lớn và những công việc lớn, và thường hay quên kinh nghiệm căn bản làm nền tảng cho mọi ơn gọi và sứ mạng, đó là được Chúa thương xót, chữa lành và tái sinh. Xin cho chúng ta biết đón nhận ơn huệ này cách sâu đậm đến độ không thể phai nhòa, trong tương quan thiết thân của chúng ta với Đức Ki-tô. Nếu không ơn gọi và sứ mạng của chúng ta sẽ không có nền tảng vững chắc.
3. Đạo binh quỷ, đàn heo và những người trong làng (c. 9-17)
Nhìn ngắm hình ảnh rất ngoạn mục: đạo binh quỷ, đàn heo, từ sườn núi lao xuống biển và chết hết. Đó chính là nơi chốn và năng động của ma quỉ: thú tính, bạo lực và sự chết; chứ không phải là nhân tính, hiền lành và sự sống.
Chúa đến giải thoát con người khỏi thần ô uế, khỏi thú tính, khỏi bạo lực và sự chết. Nhưng theo một quan điểm khác, Ngài đến quấy nhiễu trật tự vốn như thế của con người, của chúng ta, của cuộc đời mỗi người chúng ta, Ngài buộc tôi phải trả giá quá lớn, đến “2000 con heo”! Vì thế, người ta kinh ngạc, nhưng cũng thấy sợ hãi, mệt mỏi và phiền hà ; nên họ mời Ngài đi nơi khác.
* * *
Còn tôi, tôi có ước ao và quảng đại đón nhận Ngài vào cuộc đời và tâm hồn tôi không? Hay tôi cũng thấy phiền, thấy uổng đối với những gì tôi phải từ bỏ, và muốn mời Ngài đi nơi khác, để âm thầm sống trong tình trạng quen thuộc của mình, tình trạng hàm hồ, hỗn mang, lẫn lộn nhân tính và thú tính, ánh sáng và bóng tối, sự sống và sự chết?