Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc
Tin Mừng (Ga 11, 45-57)
45 Trong số những người Do-thái đến thăm cô Ma-ri-a và được chứng kiến việc Đức Giê-su làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người.46 Nhưng lại có những người đi gặp nhóm Pha-ri-sêu và kể cho họ những gì Đức Giê-su đã làm.
47 Vậy các thượng tế và các người Pha-ri-sêu triệu tập Thượng Hội Đồng và nói: “Chúng ta phải làm gì đây? Người này làm nhiều dấu lạ.48 Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rô-ma sẽ đến phá huỷ cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta.”49 Một người trong Thượng Hội Đồng tên là Cai-pha, làm thượng tế năm ấy, nói rằng: “Các ông không hiểu gì cả,50 các ông cũng chẳng nghĩ đến điều lợi cho các ông là: thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt.”
51 Điều đó, ông không tự mình nói ra, nhưng vì ông là thượng tế năm ấy, nên đã nói tiên tri là Đức Giê-su sắp phải chết thay cho dân,52 và không chỉ thay cho dân mà thôi, nhưng còn để quy tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối.53 Từ ngày đó, họ quyết định giết Đức Giê-su.
54 Vậy Đức Giê-su không đi lại công khai giữa người Do-thái nữa; nhưng từ nơi ấy, Người đến một vùng gần hoang địa, tới một thành gọi là Ép-ra-im. Người ở lại đó với các môn đệ.
55 Khi ấy sắp đến lễ Vượt Qua của người Do-thái. Từ miền quê, nhiều người lên Giê-ru-sa-lem để cử hành các nghi thức thanh tẩy dọn mình mừng lễ.56 Họ tìm Đức Giê-su và đứng trong Đền Thờ bàn tán với nhau: “Có thể ông ấy sẽ không lên dự lễ, các ông có nghĩ thế không? “57 Còn các thượng tế và người Pha-ri-sêu thì ra lệnh: ai biết được ông ấy ở đâu thì phải báo cho họ đến bắt.
(Bản dịch của Nhóm Phiên Dịch CGKPV)
*******
Chúng ta thường nghĩ, khi nhìn thấy dấu lạ, thì chắc chắn sẽ tin. Nhưng bài Tin Mừng của Thánh Lễ hôm nay cho chúng ta thấy, trong thực tế tương quan giữa thấy và tin phức tạp hơn chúng ta tưởng; và cũng là như thế ở mọi nơi và mọi thời, mỗi khi có dấu lạ. Thật vậy,
Trong số những người Do-thái đến thăm cô Ma-ri-a và được chứng kiến việc Đức Giê-su làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người. Nhưng lại có những người đi gặp nhóm Pha-ri-sêu và kể cho họ những gì Đức Giê-su đã làm. Vậy các thượng tế và các người Pha-ri-sêu triệu tập Thượng Hội Đồng và nói: “Chúng ta phải làm gì đây?” (c. 45-47)
Như thế, khi chứng kiến hoặc nghe kể lại phép lạ chưa từng thấy, đó là anh Ladarô được Đức Giê-su cho sống lại sau khi đã chôn táng trong mồ bốn ngày, có những người tin nơi Người, nhưng lại có những người muốn làm hại Người, khi đi kể lại với người không có thiện cảm với Đức Giê-su, đó là các thượng tế, những người Pha-ri sêu và cả Thượng Hội Đồng Do Thái giáo. Quả thực, ngay sau khi hội họp, họ quyết định loại trừ Đức Giê-su!
1. Những người tin
Chứng kiến hay nghe nói về phép lạ lớn lao ông Ladarô đã chết, được chôn táng trong mồ bốn ngày, nhưng lại hồi sinh bởi lời của Đức Giê-su, có những người tin nơi Đức Giêsu. Nhưng tin là gì? Đâu là những hệ quả của lòng tin trong cuộc sống, trong những lựa chọn, trong hướng đi, trong cách sống, trong tương quan với Chúa và với người khác? Chúng ta cũng đã nhận ra bao “dấu lạ” Chúa làm trong cuộc đời của chúng ta, chúng ta có tin không? Nếu có tin, thì đức tin đó là đức tin nào? Có biến đổi sâu xa tương quan của chúng ta với Chúa và với “mọi sự khác” không? Thiên Chúa đối với chúng ta là ai, Đức Ki-tô là ai? Niềm tin này có trở thành lẽ sống của chúng ta không?
Như thế, dấu lạ thì chỉ có một lần hay một vài lần thôi, nhưng tin là một hành trình kéo dài suốt đời và đầy khó khăn. Cũng tương tự như hai người trẻ nam nữ, giống như mỗi người chúng ta và Hội Dòng, sau một thời gian tìm hiểu và đến một thời điểm xác định nào đó, được mời gọi trao ban lòng tin cho nhau, nhưng phải sống niềm tin trọn đời. Và đó là một hành trình không dễ dàng và đòi hỏi phải làm mới lại lòng tin yêu không ngừng.
2. Những người không tin
Trước hết, đó là “những người đi gặp nhóm người Pharisêu và kể cho họ những gì Đức Giê-su đã làm”. Về những người này, chúng ta chẳng có thể phán đoán gì được về niềm tin của họ nơi Đức Giê-su: họ có tin hay không? Tin Mừng chỉ kể lại hành động khách quan của họ, là họ đi báo cáo với những người không có thiện cảm với Đức Giê-su!
Nhóm người còn lại là cả một “Thượng Hội Đồng”, đại diện cho quyền bính tôn giáo và xã hội ; họ nhìn các dấu lạ Đức Giê-su đã làm với con mắt khác hẳn:
Chúng ta phải làm gì đây? Người này làm nhiều dấu lạ. Nếu chúng ta cứ để ông ấy tiếp tục, mọi người sẽ tin vào ông ấy, rồi người Rô-ma sẽ đến phá huỷ cả nơi thánh của ta lẫn dân tộc ta. (c. 47-48)
Nhận định này chắc là đúng, về phương diện xã hội và chính trị; nhưng người ta đã lựa chọn sự an toàn của mình, của địa vị, của quyền bính, hơn là đặt những câu hỏi liên quan đến đức tin, hơn là “phân định thiêng liêng”: Đức Giê-su là ai? Ngài có đến từ Thiên Chúa không? Thiên Chúa muốn nói gì với tôi, với dân tộc tôi qua ngôi vị và cung cách hành xử của Ngài? Chính vì thế, họ đã coi Đức Giê-su là “tên quấy rối” phải tiêu diệt! Thật vậy, “từ ngày đó, họ quyết định giết Đức Giê-su” (c. 53)!
Lựa chọn sự an toàn của mình, địa vị của mình, quyền lợi của mình, tài sản của mình, thì tất yếu sẽ đi đến hành vi của thú tính, đó là loại trừ bằng sức mạnh, bằng sự gian trá và bằng bạo lực. Có lẽ, nhóm người này nói về con người thời nay, và về chính chúng ta nhiều nhất[1].
Đức Giê-su làm những dấu lạ để cứu sự sống, nhưng khi làm thế, Ngài lại mang vào mình nguy cơ mất sự sống. Tuy nhiên, Sự Dữ mà con người làm cho Ngài không làm thất bại kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, Ngài dùng chính hành động tiêu diệt Ngài:
– Để cho sự dữ hiện nguyên hình và qua đó, giải thoát loài người chúng ta khỏi sự dữ,
– Để bày tỏ khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa, là tình yêu và chì là tình yêu bao dung và thương xót vô hạn,
– Để trao ban sự công chính và sự sống của Ngài cho chúng ta; và để “qui tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối”.
3. “Dấu lạ Thập Giá”
Trong cuộc Thương Khó có điểm tới là “Dấu lạ Thập Giá” hay “Lời Thập Giá” (1Cor 1, 18), với thân xác mỏng manh của Con Thiên Chúa nhập thể, Đức Giê-su được mời gọi bày tỏ Khuôn Mặt Rạng Ngời của Thiên Chúa Cha, một khuôn mặt đã bị hiểu lệch lạc, bị bóp méo, ngay từ nguồn gốc sự sống (x. St 3, 1-7), nhưng không phải bằng những kì công lớn lao, hay những phép lạ cả thể; bởi vì lịch sử Dân Do Thái và cuộc đời của Đức Giê-su cho thấy rằng, những kì công lớn lao và những phép lạ cả thể không những không mang lại lòng tin, nhưng còn khơi dậy lòng ham muốn không cùng những điều lạ, ngoài ra còn bị Sự Dữ xen vào khơi dậy những cách hiểu và hành động lệch lạc[2].
Vì thế, theo ý của Chúa Cha, Ngài được mời gọi bày tỏ Khuôn Mặt Rạng Ngời của Cha, theo một cách khác, “một cách điên rồ và sỉ nhục”, nhưng lại là sức mạnh và sự khôn ngoan thần linh, qua việc:
– Đối diện với chính Sự Dữ biểu dương sức mạnh bạo lực ở mức độ tuyệt đối và dưới mọi hình thức, không phải bằng sức mạnh bạo lực lớn hơn, nhưng bằng sự hiền lành tuyệt đối của Con Thiên Chúa, để chiến thắng sự dữ và giải thoát chúng ta khỏi sự dữ và tất cả những gì liên quan đến sự dữ (x. Tv 8; hình ảnh Con Chiên và bầy sói dữ).
– Gánh lấy mọi “bệnh hoạn tật nguyền” của con người, nghĩa là mang vào mình, trong sự thinh lặng không lên án, mọi hành vi tội lỗi của những con người cụ thể trong cuộc Thương Khó, qua đó mang vào mình mọi tội lỗi của loài người và từng người cách trọn vẹn.
– Và nhận vào mình thân phận đau khổ và phải chết của loài người chúng ta, không phải với sự phản kháng và thái độ kêu trách, nhưng bằng lời nguyện tín thác: “Cha ơi, con xin phó sự sống của con trong tay Cha” (Tv 31, 6).
Như thế, không phải vì tội của tôi mà Chúa để cho mình “bị phạt” theo Lề Luật thay cho tôi; và cũng không phải một cách trực tiếp tội của tôi làm cho Chúa bị bắt, bị phản bội, bị bắt, bị lên án, chịu khổ hình và chịu chết. Trong cả hai cách hiểu như trên về mầu nhiệm Thương Khó, vốn là điểm tới của Lịch Sử Cứu Độ, của cuộc đời Đức Giê-su và là mặc khải tuyệt đỉnh của Thiên Chúa, tôi đều để cho mình bị rơi và bẫy của ma quỉ, là tự kết án chính mình! (x. Kh 12, 9-10)[3]. Chúa chết vì những con người cụ thể như thế trong một hoàn cảnh lịch sử như thế; nhưng cả nhân loại và từng người, kể cả chúng ta, được mời gọi thấy mình trong cách hành xử của họ. Chúa chết vì tội lỗi nhân loại là như thế. Khi nhìn ngắm Chúa, là chân lý và là sự sống, dường như bị chìm ngập trong bầu khí gian trá và thú tính, xin cho chúng ta cảm được sự kinh khủng, không thể chấp nhận của tội gây ra bởi sự dữ, và xin Chúa tha thứ, chữa lành và giải thoát nhân loại và từng người chúng ta “khỏi mọi sự dữ”.
Và đồng thời, Chúa tự nguyện chịu khổ hình, bởi những con người cụ thể trong cuộc Thương Khó, chính là để bày tỏ cho tôi tình yêu đến cùng của Chúa dành cho tôi, dù tôi là ai và đang ở trong tình trạng nào. Tôi được mời gọi tôi nhận ra nơi những gì Đức Giê-su mang lấy trong cuộc Thương Khó, có chính bản thân tôi, như tôi là, nhỏ bé, giới hạn, yếu đuối, tội lỗi; tôi hiện diện cách trọn vẹn, được đón nhận cách trọn vẹn và được bao dung cách trọn vẹn trên đôi vai của Đức Giê-su, trong ánh mắt và trong trái tim của Người.
[1] Có thể đọc bài “Sự Dữ”.
[2] Lòng tin chỉ dựa vào phép lạ sẽ dẫn những hệ quả nghiêm trọng: (1) Thiên Chúa chỉ ở trong những điều lạ thường, còn những điều bình thường, là phần lớn cuộc đời chúng ta, thì sao? Thân phận con người rốt cuộc có là ơn huệ Thiên Chúa không? Có là đường đi dẫn đến Thiên Chúa hay không? (2) Không chấp nhận thân phận con người và không liên đới với thận phận của người khác. (3) Ma quỉ sẽ lợi dụng để khơi dậy lòng ham muốn không cùng những điều lạ, như đã làm trong Sáng Tạo (x. St 3, 1-7) và trong Lịch Sử Cứu Độ (x. Ds 21, 4-9): có điều lạ thì tin, không có thì trách móc nghi ngờ; ngoài ra, còn có những người đã ngụy tạo ra điều lạ để lừa dối mình và lừa dối nhau.
[3] Ngoài ra, cuộc Thương Khó của Đức Giê-su còn dập tắt mọi kết nối tự phát giữa đau khổ và hình phạt do tội. Bởi vì, Người chịu đau khổ, nhưng Người là Đấng Vô Tội tuyệt đối; tương tự như những người công chính, nhưng bị bách hại, được kể lại trong lời nguyện Thánh Vịnh (x. Tv 22) và nhất là như trường hợp của Người Tôi Tớ Đau Khổ (Is 52, 13 – 53, 12).