❖ Ý nghĩa và giá trị
Sự độc thân vì Nước Trời là điều không chỉ dành riêng cho các tu sĩ nam nữ. Các phần tử tu hội đời, các linh mục (trừ một số thuộc Giáo hội Đông phương) hàng giáo sĩ gồm những người độc thân. Cả những giáo dân dù không có những cam kết rõ ràng, cũng khám phá ra một ý nghĩa cho sự độc thân của mình nhờ Lời Chúa Kitô. Tuy nhiên, cách chung, sự khiết tịnh đời tu nằm trong một viễn tượng cộng đoàn.
Người tu thường xuyên nhấn mạnh đến sự nâng đỡ được mang lại do tình thương mến huynh đệ trong cộng đoàn, để nhờ đó kiên trung giữ và sống trọn vẹn đời khiết tịnh. Nói như thế thì khiếm diện và nguy cơ là yếu tố cộng đoàn mới khiến các phần tử giữ được đời sống khiết tịnh? Cần phải bổ sung một vế là chính cá nhân những nam nữ tu sĩ dâng, hiến sự tự do trọn vẹn của con tim, sẵn sàng phục vụ hết lòng, làm nên sức sống của cộng đoàn. Sự tác động hai chiều này giữa cá nhân và cộng đoàn càng được sống mạnh mẽ, các cá nhân càng thăng hoa và chứng tá cộng đoàn càng mặc khải mầu nhiệm của Giáo hội.
Đối với chúng ta, cộng đoàn là trung tâm điểm của dự phóng đời tu, sự độc thân lệ thuộc vào dự phóng đó. Không phải đời sống cộng đoàn được thành lập vì độc thân, nhưng độc thân được chấp nhận vì đời sống cộng đoàn. Một số tu sĩ không thành công sống trọn hảo sự tiết dục trong một giai đoạn khủng hoảng, nhưng cố gắng kiên trì trong dự phóng sống đời cộng đoàn của mình, họ vẫn giữ được mình là tu sĩ. Tuy có sự bất trung trong đời sống khiết tịnh, nhưng ơn gọi đời sống của họ không vì thế mà thay đổi. Ngược lại, trừ trường hợp vì những lý do quan trọng và chính đáng (vấn đề sức khoẻ, vấn đề gia đình bổn phận đối với cha mẹ). Một tu sĩ quyết từ chối theo luật cộng đoàn thì liệu đời sống tu sĩ có còn không?
Sự khác biệt ở chỗ là sự khủng hoảng nhất thời, hay là hoàn toàn xét lại một hướng sống. Trong một thế giới hoạt động sứ vụ phải thường xuyên giao tiếp, trong đó có cả với những người khác phái, nếu có những xung năng về sức ái cảm thì cần thiết phải xét định trong sự bình thản và cầu nguyện để nhận ra những ý hướng tốt đẹp. Một con tim nhân loại vẫn mãi là một con tim nhân loại. Những thời khắc xung động sẽ tạo nên dịp để nhận định và tìm hiểu sâu xa ơn gọi của mình.
Lời khấn định hướng và xác nhận tự do của người cam kết. Một yếu đuối không phải là dấu chỉ thay đổi hướng đích, đơn giản nó chỉ nhắc cho thấy sự mỏng dòn của bản tính nhân loại. Lời khấn khiết tịnh không bị đụng chạm tới, vì lời khấn thực hiện một dự phóng cuộc đời đòi hỏi có những ràng buộc để thực hiện những dự phóng cho sứ vụ, những thiếu sót và khủng hoảng nhất thời phải được xác định rõ và ấn định tính chất của nó liệu xem có cản trở những dự phóng hay không?
❖ Những yếu tố liên hệ đến nhân cách trong đời sống độc thân vì Nước Trời
Sống giới tính của mình trong đời sống độc thân thánh hiến, trước tiên hết là một lời mời gọi sống sung mãn nhân cách của mình (nam tính, nữ tính) và thể hiện sự hạnh phúc được sống tính cách của mình trong ơn gọi.
Cần hiểu rõ nhân cách giới tính của mình nhằm định vị cho mình những cách thức khác nhau để xử sự, để suy tư, để cảm xúc, để hành động, để cầu nguyện, để tương quan.
Học biết cách phát huy sự phong phú của tính cách mình để lắng nghe, nhạy cảm với tình cảm của người khác, sự hiểu biết của con tim làm cho chúng ta kiên trì, bền đỗ trong khi thực thi lý tưởng thánh hiến.
Ở mỗi người, tính cách gây hấn bởi những xung năng luôn có đó, phải học biết và tập luyện quản lý nó và làm sao điều hướng theo một sự phát triển tốt nhất nhờ việc thực thi ba lời khấn (nên nhớ rằng cả ba lời khấn có một tương liên với nhau) trong mối tương quan giữa chủ thể và những người khác: Dấn mình vào một công việc cam go nhưng cần thiết, bền đỗ trong việc dấn thân vất vả nhưng có giá trị, làm sáng tỏ sự thật với anh chị em mình dù đôi khi phải trả giá cho hành động này.
Ngay trong đời sống cộng đoàn phải phát huy sự luyện tập này để những gây hấn xảy ra nhưng phải có khả năng điều chỉnh (xung khắc về quan điểm, hành vi là không tránh khỏi, nhưng quan trọng là phải nhận ra để chỉnh sửa). Chỉnh lại những gì đã diễn ra bởi những bức xúc mãnh liệt của cảm tính với những lời lẽ đã bộc phát, giải mã những gì đang lẫn lộn trong sự tức giận, điều mà ban đầu tưởng là đúng. Đôi khi phải tĩnh lặng để nhận ra rằng mình đang nhân danh những gì mang tính lý tưởng: chọn lựa dấn thân tông đồ, thiết định một đời sống khó nghèo vì người nghèo… nhưng kỳ thực là đang giấu những xung đột giữa các mối quan hệ đã được nội tâm hoá của mình.
❖ Cần phải học biết sự phân tách giữa hai yếu tố: tình cảm và lý trí
Lý trí được huy động cho công việc, sự học hành, khả năng điều hành, chuyên môn, sắp xếp tính hiệu năng. Tình cảm liên quan đến đời tư, nội giới, thầm kín mà cá nhân chủ thể không cảm thấy phải trả lẽ một cách minh nhiên.
Sự phân tách này được thực hiện để hiểu rõ chúng, còn trong thực thế, hai lãnh vực này hoà quyện với nhau, vấn đề là ở chỗ làm sao để biết đặt tình cảm và trí khôn chung với nhau để phục vụ những nhận định của chúng ta nhằm đi đến những quyết định và những hành động có hiệu lực và ghi dấu ấn trong lịch sử cuộc đời mình.
Ở điều này, chúng ta cũng phải biết đưa sự liên kết này gắn bó với đức tin, cử hành phụng vụ và đời sống đạo đức để đạt được chiều kích nội tâm phong phú cho đời sống độc thân vì Nước Trời.
❖ Lời khấn khiết tịnh là muốn thực tập yêu thương người khác đến độ hiến thân mình
Chúng ta cam kết bằng lời khấn, là để luôn bắt đầu lại về sự yêu thương người khác trong sự khác biệt của họ, xem họ là cá vị duy nhất, sẵn sàng đón nhận sự khác biệt của họ với mình và tôn trọng họ.
Lời khấn khiết tịnh mời gọi ta đạt đến mốì tương giao trong kinh nghiệm của đời sống cộng đoàn là cùng nhau chấp thuận KHÔNG QUI VỀ CHÍNH MÌNH, nhường chỗ thật tự do cho việc qui về Chúa Kitô, Đấng qui tụ chúng ta trong đời sống cộng đoàn để dành ưu tiên cho sứ vụ tông đồ. Đôi khi có những cộng đoàn đã không giải quyết được xung đột, để cho năng lực các hội viên bị triệt tiêu, thay vì phát huy mọi sự cho sứ vụ thì trái lại bị mất năng lực vì bị gặm nhấm bởi những xung đột thường ngày.
Trong mối tương quan xem ra là thiện cảm, là do bởi người này tìm thấy nơi người kia một phản ánh của chính mình, cần phải đi từ chỗ tích cực quá đáng này đến một biên độ trung dung, bao lâu mà vẫn còn ở trong tình trạng chấp nhận tất cả hay gạt bỏ tất cả thì không thể tiến tới một biên độ quân bình, cần có một tương quan thật sự dựa trên sự kính trọng và quí mến lẫn nhau.
Ở trường hợp ác cảm cũng vậy, người kia được xem như hoàn toàn xấu, của một cái gì đó mong manh trong chính mình. Vì thế, cần phải gạt bỏ ra để cho cá nhân mình được vững lòng, để cái xấu của họ không còn ở trong mình. Thưa rằng, đó là ảo tưởng. Điều trước hết là cần tập luyện để chính mình nhận ra sự hàm hồ, phức tạp của tình cảm nơi chính mình để thấy được có một hỗn độn nào đó trong chính mình khi tương quan với người kia, và phân biệt được đâu là lý do mà tôi lại gạt bỏ họ. Nếu bình tâm suy xét và nhận thức về tính phức tạp nơi mình thì cơ hội tìm cách xây dựng lại với người mình ác cảm với một quan hệ tích cực mới có thể có được. Đây là một sự luyện tập để từ bỏ, mọi thử thách quyết định cho sự trưởng thành.
❖ Lời khấn khiết tịnh chế ngự sự vui thú bằng khổ chế
Có những nhu cầu được xác định trở nên trung gian giữa ta và thế giới khách thể. Những trung gian đó mang theo những sự vui thú:
– Cảm thấy thích thú khi ăn.
– Tha thiết và thoả mãn khi làm một điều gì
• Lợi ích của một giấc ngủ
• Những cảm giác êm dịu khi tiếp xúc với các yếu tố: khí hậu mát mẻ, trong lành, buổi sớm, nước, nắng ấm…
Chính cái cảm giác sâu xa tận đáy lòng là tốt có một tiếp xúc cốt thiết với thế giới tôi hiện hữu, chính điều này giúp tôi tạo nên trong mình cái nội tâm riêng cái cảm giác thoả mãn riêng trong chính mình.
Một lúc nào đó, có một sự chuyển biến chúng ta bắt đầu thưởng thức cái thực tế thoát khỏi chính mình. Lúc này, sự khổ chế là cái gì mà chúng ta cần thủ đắc vào việc quản lý sự vui thú làm phát sinh lòng ước muốn thoát khỏi con người ta.
Ở đây muốn xác định là ta cần có khả năng để thưởng nghiệm về sự vật, phi vật thể (văn học, nghệ thuật, thiêng liêng) hay cả với tương quan, với một người khác, với một Đấng khác… nhằm đạt được một nội tâm nhân bản nhưng rồi nội tâm đó cần có một sự khổ chế đúng đắn để giúp thanh luyện và cảm nghiệm về một sự chừng mực cần có với sự thưởng nghiệm trên.
❖ Lời khấn khiết tịnh giúp đạt tới một đời sống dồi dào, phong phú (Ga 10,10)
Dù ở đâu, khi thực hiện đời sống khiết tịnh vì Nước Trời, chúng ta đều cố gắng tăng tiến những gì quí báu trong sự sống “đừng bẻ gãy cây lau bị giập, đừng nỡ giập tắt tim đèn còn khói” (Is 42, 3).
Chúng ta có kinh nghiệm về đời sống cộng đoàn, có đủ khả năng đóng góp (theo tầm mức của mình, vào việc tái tạo lại giây liên lạc trong xã hội đã bị chủ nghĩa cá nhân làm lỏng lẻo đi.
Ơn gọi của ta, dù cách nào cũng góp phần vào việc “qui tụ con cái Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối ” (Ga 11, 52) Chúng ta có một kinh nghiệm về sự chia sẻ, có thể đóng góp một cách tích cực vào việc tìm kiếm một thể thức mới để chia sẻ, để trao ban.
Chúng ta cam kết sống giữa chúng ta trong cộng đoàn, những gì chúng ta mong ước cho người khác: một thế giới tình yêu và huynh đệ, học tập và chia sẻ tình yêu trong khác biệt, một lòng tin nơi Thiên Chúa là Chúa của tình yêu, của sự hiệp nhất sâu xa.
Chúng ta thực hiện một đời sống có chiều kích nhân bản và dấn thân không ngừng nhờ sự chiêm nghiệm quanh Đức Kitô qua Lời và Mình Máu Ngài. Một sự chân thành và khiêm nhượng trong giao tế khiến chúng ta trở nên dấu chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa trong thế giới hôm nay.
Ta thường nói rằng: sứ vụ bắt đầu từ trong cộng đoàn. Một tư thế quân bình được kết dệt bằng cả một dự phóng dân thân, luôn tìm cái đẹp, sự thiện trong việc tổ chức cộng đoàn và lưu tâm đến môi trường rộng lớn để phục vụ sứ mệnh. Điều này đang chứng tỏ sự hài hoà và phong phú trong lời khấn khiết tịnh của chính chúng ta.
Nguồn: Tài liệu Tĩnh tâm tại Hội dòng Đa Minh Tam Hiệp
(Không biết tác giả)