I. ẢNH HƯỞNG TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI
1. Cách sống đoàn lũ, hình thức và gian dối
Trong một thời gian khá lâu, đất nước Việt Nam sống trong thời kỳ bao cấp, một thời kỳ tạo nên những cách sống đoàn lũ, hình thức và gian dối. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó trong một câu vè, được viết lại trong báo Ong Đất ở Bungary như sau:
“Ai cũng có việc làm nhưng không ai làm việc,
Ai cũng không làm việc, nhưng ai cũng có lương
Ai cũng có lương, nhưng không ai đủ sống,
Ai cũng không đủ sống, nhưng ai cũng cứ sống
Ai cũng sống, nhưng không ai hài lòng
Ai cũng không hài lòng, nhưng ai cũng giơ tay đồng ý”.
Đời sống cơ cực, các sinh hoạt thì bị o ép, ai cũng nói theo ý cấp trên. Nói tạo nên sự huỷ hoại các giá trị chân chính của bản chất con người: đơn sơ, chân thật. Đó là một sự tan rã các giá trị tinh thần.
– Tính cách đoàn lũ khiến cho người ta không có thói quen có suy nghĩ riêng và không ai có can đảm nói lên cảm nghĩ riêng của mình, chỉ cần một vị lãnh đạo nói một điều gì tất cả xã hội đều rợp ràng ca tụng.
– Tính cách hình thức, người ta chỉ việc giơ tay nhất trí những gì đã được trên đưa xuống, những công tác nặng hình thức, những lối báo cáo thành tích ghê gớm mà thực chất không có bao nhiêu.
– Tính cách gian dối: chẳng hạn tình trạng báo cáo láo, kiểu làm ăn lời giả lỗ thật của các xí nghiệp.
Những điều đó không khỏi không ảnh hưởng đến nhân cách của tu sĩ, xét như những con người sống trong xã hội.
2. Những vấp váp trong thời kinh tế thị trường
Sự hụt hẫng trong khi bước vào đổi mới về cung cách quản lý vì chưa thấm được những luật chơi của nền kinh tế thị trường, chẳng hạn sự liêm chính, ý thức chung, tinh thần tự chủ, khả năng sáng tạo. Có người nói “hai đứa con của thời bao cấp tạo nên: đạo đức giả, và thói vô trách nhiệm. Ngược lại thời kinh tế thị trường lại mang tính cách một thứ tư bản hoang dã và sản sinh ra hai đứa con là: nóng vội kiếm tiền và cắm đầu hưởng thụ”.
Thái độ thực dụng là con đẻ của nền kinh tế thị trường, bởi vì trong xã hội ấy, dần dần người ta rơi vào cám dỗ dễ dãi: đặt hết tầm quan trọng của cuộc đời vào những phương tiện, những dịch vụ. Chẳng hạn: khi đi học học sinh thì thấy cần xe, cần quần áo… mà không hề quan tâm đến tinh thần học hỏi của mình.
Rồi qua lăng kính của kinh tế, người ta cũng dễ dàng đánh giá con người dựa vào của cải tài năng… những lối nhìn như thế, trong thực chất, chính là một sự giản lược phẩm giá con người vào hàng sự vật.
II. ẢNH HƯỞNG TRONG ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI
Trong một thời gian dài Giáo hội bị cắt đứt những liên hệ với thế giới Kitô giáo. Những tương tác về tinh thần, về não trạng, về tâm thức sống đạo, về tâm thức đời tu chưa bắt nhịp với thế giới bên ngoài và chúng ta cảm thấy hụt hẫng khi phải giao tiếp với nền tu đức mới. Giáo hội Việt Nam cũng như hầu hết các tôn giáo khác, có lẽ đã chia sẻ những khó khăn chung của đất nước. Giáo hội đã vượt qua nhiều thử thách một cách khá anh hùng. Tuy nhiên những vết thương do cuộc chiến ấy cũng để lại những vết thương và mầm bệnh sâu xa trong cơ thể. Ảnh hưởng của xã hội cũng phần nào ảnh hưởng trên nếp nghĩ và cách sống.
1. Đời sống trưởng giả
Các tu sĩ và linh mục đua nhau sắp sửa những đồ dùng từ xe cộ nhà cửa… Người tu sĩ trẻ chỉ còn biết đánh giá nhau bằng việc học, bằng những cố gắng để thăng tiến về phương diện xã hội.
2. Sự tách biệt giữa đời sống đạo và sinh hoạt hằng ngày
Giáo hội không khám phá ra nhu cầu Thiên Chúa của con người hôm nay. Giáo hội không có khâu tiếp thị, nên chỉ có những thức ăn đồng loạt nấu sẵn… Hơn nữa lời giảng của những linh mục có khuynh hướng lôi kéo ra khỏi cuộc sống của họ, dựa trên nếp sống linh mục, tạo nên một cuộc cạnh tranh giữa sinh hoạt tôn giáo và sinh hoạt trần thế. Bài giảng của linh mục chỉ là những sáo ngữ, những điều mà người nói đã học được, đã cố suy nghĩ để có cái mà nói, nhưng tự thâm tâm cũng không biết rằng người ta có thể sống được với điều ấy không, hoặc chính người nói cũng chẳng bao giờ cố gắng một chút để sống điều mình nói…
3. Sự khác biệt giữa già và trẻ
– Người già sống với những giá trị đạo đức siêu nhiên thuần tuý. Lối sống của người già dựa trên lề luật hiến pháp, thường bám vào nguyên tắc để truyền lệnh áp đặt.
– Người trẻ lại đòi hỏi một lối sống với giá trị nhân bản: nhân ái và cảm thông. Họ khao khát được đối thoại, đồng hành và đồng cảm.
III. NGUY CƠ TỤT HẬU TRONG NHÂN CÁCH CỦA NGƯỜI TU
Chúng ta có thể nhận thấy một số biểu hiện có sự tụt hậu về nhân cách:
– Càng tu càng trở nên “khờ người” ra: người tu sĩ được đào tao trong bầu khí “được quyết định thay” về nhiều chuyện, nên ít có khả năng tự quyết đoán và tự chọn thái độ của chính mình.
– Thiếu sáng kiến: trong đời sống tu người trẻ dù đã lớn tuổi, đã có bằng cấp cao vẫn trở thành người còn quá non nớt trong lãnh vực tu trì, khiến cho các bạn trong thời gian thụ huấn thường không phát huy được năng lực của mình.
– Thiếu trưởng thành: một người trẻ ngoài đời đang học đại học, có khả năng chọn lựa nếp sinh hoạt của mình (nên xem tivi những chương trình nào, nên đi chơi những dịp nào…). Trong khi ở nhà Dòng các bạn đó lại thường được các vị hữu trách hay được nếp sống kỷ luật quyết định thay. Dần dần bạn không còn khả năng chọn lựa một cách trưởng thành nữa (khi được phép thì xem tivi cho hết chương trình, khi có thể thì trốn lễ).
– Ít khả năng phấn đấu: trong các nhà Dòng lớn, các thụ huấn sinh được bao cấp đến hết mọi chuyện. Khi không có được nhiều quyền tự do, người ta cũng không thấy được trách nhiệm và giới hạn của mình và luôn đổ lỗi cho cơ cấu, cho hoàn cảnh. Đồng thời cũng thường đòi hỏi yêu sách… Những điều đó làm cho người thụ huấn càng ngày càng giảm khả năng phấn đấu.
– Khuôn phép trong nếp sống, xơ cứng trong quan điểm: đời sống tu trì từ bao đời nay được hiểu như là một nếp sống khuôn phép. Nếp sống đều đặn, giờ giấc kỷ luật, làm cho người ta rất lúng túng trong một môi trường tự do và phải quyết định chương trình sống cho mình. Họ không dám quyết định và ít can đảm nhận trách nhiệm của mình.
Nói tóm lại
Phương pháp đào tạo trong các Dòng tu thường chỉ dựa vào một khuôn khổ, từ chuyện kinh nguyện cho đến việc học hỏi và công tác tông đồ. Giờ giấc kinh hạt được coi là tiêu chuẩn để đánh giá khiến cho người tu ít khi tự nguyện, tự do và sáng tạo để tìm cho mình một cách thức sống tâm linh.
Tất cả những thứ vỏ cứng như thế chỉ tạo nên một thói quen hơn là một giá trị tinh thần. Khi những thói quen ấy bị phá vỡ, một lỗ hổng của nhân cách sẽ lộ ra.
Nếu những yếu tố trong tiến trình đào tạo không được đón nhận một cách tình nguyện tự do thì nó không thể trổ sinh hoa trái được.
Có nên bi quan không?
Thật sự, nếu chúng ta tin vào con người (là sinh vật có khả năng phản tỉnh) và nhất là tin vào sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần, ta không bi quan. Lịch sử Giáo hội cho thấy: luôn có con đường mới mở ra qua những khúc quanh gay gắt nhất. Sống mầu nhiệm Nước Trời như hạt cải: Nghĩa là sống đồng thời với một thế giới đang qua đi và với niềm hy vọng đang hình thành.
Lm. Đa Minh Đinh Viết Tiên